Phân Tích Chị Em Thuý Kiều Mới Nhất 2023

phân tích chị em thuý kiều

phân tích Chị em Thúy Kiều tuyển văn hay, ấn tượng và mới nhất giúp các em học sinh lớp 9 thấy rõ vẻ đẹp, tài năng của Thúy Kiều, Thúy Vân để viết bài văn đo đạt thật hay. Đoạn trích Chị em Thúy Kiều nằm ở đoạn đầu tiên Truyện Kiều, cho thấy rõ bút pháp ước lệ tượng trưng, biện pháp đòn bẩy tài tình, cùng tài năng miêu tả bậc thầy của đại thi hào Nguyễn Du. Chi tiết mời các em cùng theo dõi nội dung sau đây của download.vn để có thêm nhiều vốn từ:

Sơ đồ tư duy phân tích Chị em Thúy Kiều

Sơ đồ tư duy Phân tích Chị em Thúy Kiều

Thông tin đoạn trích Chị em Thúy Kiều

1. Ví trí, thể loại của đoạn trích

a. Đoạn trích chị em Thúy Kiều nằm trong phần nào của Truyện Kiều?

– Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” là một trong những đoạn thơ hay và đặc sắc trong tác phẩm Truyện Kiều. Nhằm hiểu thêm chi tiết về toàn bộ tác phẩm, xem thêm tại phân tích tác phẩm Truyện Kiều .

– “Chị em Thúy Kiều” nằm ở phần I của tác phẩm, có tên “Gặp gỡ và đính ước”. Với mạch thơ tập trung miêu tả gia đình Vương viên ngoại, trích đoạn thơ trên miêu tả vẻ đẹp và phẩm hạnh “đoan trang, nết na” của chị em Thúy Vân, Thúy Kiều.

b. Chị em Thúy Kiều thuộc thể loại gì?

– Nằm trong trường đoạn Đoạn trường tân thanh, đoạn trích Chị em Thúy Kiều được viết theo thể thơ lục bát, với bản gốc là thơ chữ Nôm.

– Nhà thơ Chế Lan Viên từng có lời khen ngợi thơ của Nguyễn Du rằng: “Nguyễn Du viết Kiều, quốc gia hóa thành văn”. Thể thơ lục bát được sử dụng xuyên suốt tác phẩm Truyện Kiều là một niềm tự hào của văn học Việt Nam.

2. Tóm lược Chị em Thúy Kiều

Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” đã khắc họa rõ nét bức chân dung tuyệt mỹ của hai chị em Thúy Kiều, không những ở vẻ đẹp bên ngoài mà còn là nội tại và phẩm hạnh bên trong. Qua những phép ẩn dụ tự nhiên, chị em Thúy Kiều, Thúy Vân hiện ra như hai vầng trăng ngọc ngà, duyên dáng. Câu thơ “Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân” đã thể hiện đầy khéo léo thứ bậc hai người con gái trong gia đình Vương viên ngoại. Nguyễn Du gây độc đáo với người coi bởi tinh thần và cốt cách của hai Kiều.

Dưới ngòi bút của ông, hình ảnh Thúy Vân, Thúy Kiều toát ra vẻ đẹp và cốt cách thanh tao tựa hoa mai, tâm hành, phẩm hạnh đoan trang, thuần hậu như hoa tuyết. Phép tiểu đối mang hình ảnh ẩn dụ vừa đặc tả bức tranh thiếu nữ mang một vẻ sáng trong vừa khơi gợi xúc cảm thẩm mĩ cho người coi. Hai chị em mỗi cá nhân một vẻ, nhưng đều mang vẻ đẹp hoàn mỹ, trang trọng.

Từng câu thơ mang điển cố điển tích, nghệ thuật ước lệ tượng trưng được lồng vào câu thơ của Nguyễn Du mang bao tình cảm mến yêu, trân trọng. Với nghệ thuật đòn bẩy, tác giả đã miêu tả hình tượng nhân vật người em Thúy Vân nhằm làm nổi bật hình tượng Thúy Kiều.

ca ngợi hai chị em nhưng sắc độ khác biệt khi Nguyễn Du chỉ dành bốn câu thơ để tả sắc của Vân, trong khi dành tới mười hai câu tả sắc, tài và tình của Kiều. Vẻ đẹp của nàng Kiều được khắc họa như một vẻ đẹp vẹn toàn, “mười phân vẹn mười”. Ở trên đời có mấy ai được “mười phân vẹn mười”? đây chính là vẻ đẹp khiến tạo hóa phải hờn giận, các tạo vật khác phải đố kị. Cùng trí tuệ tài hoa, tâm hồn đa sầu đa cảm, Kiều khó tránh khỏi số phận nghiệt ngã, éo le phía trước.

Dàn ý phân tích đoạn trích Chị Em Thúy Kiều

1. mở đầu

  • Sơ lược về truyện Kiều.
  • Giới thiệu đoạn trích Chị em Thúy Kiều.

2. Thân bài

a. Vị trí đoạn trích:

b. Thân phận và vẻ đẹp chung của hai chị em Thúy Kiều: (Bốn câu thơ đầu)

  • Con nhà viên ngoại, Kiều là chị, Vân là em.
  • “Mai cốt cách, tuyết tinh thần”: Vẻ đẹp thanh cao, phú quý tựa hoa mai, tinh thần trong sáng, thanh khiết tựa tuyết.

c. Vẻ đẹp của Thúy Vân “Vân coi…màu da”:

  • Khí chất “trang trọng”, phú quý, nhã nhặn.
  • khuôn mặt tròn tựa trăng, nét mày ngài đen, rậm, nở nang.
  • Điệu cười tươi như hoa nở, giọng nói trong, thanh, ấm như ngọc quý => Đoan trang, dịu dàng.
  • Tóc mây, thể hiện vẻ đẹp của người con gái hiền dịu, tình nghĩa, thủy chung, nước da trắng như tuyết, vẻ đẹp sạch sẽ không lấm bụi trần.

=> Nguyễn Du đã dùng bút pháp ước lệ tượng trưng thông qua các hình ảnh rất nhã nhặn, dịu dàng như trăng, hoa, ngọc, mây, tuyết để gợi ra nét đẹp của một người con gái có vẻ đẹp lịch thiệp, không quá sắc sảo, nhưng khiến người ta dễ chịu và quý mến, điều này gợi ý cho người đọccũng như dự đoán trước về cuộc đời bình đạm và êm ấm của nàng Vân.

d. Vẻ đẹp của Thúy Kiều: “Làn thu thủy…một chương”: Vẻ đẹp hội tụ tài và sắc.

* Nhan sắc:

  • “Làn thu thủy”: ánh mắt đẹp, trong như nước mùa thu, thơ mộngnhưng cũng là biểu hiện của con người đa sầu đa cảm, đào hoa, khổ mệnh.
  • “Nét xuân sơn”: Đôi mày liễu tô điểm khiến cho gương mặt thêm phần sắc sảo tựa như nét núi mùa xuân, tuy nhiên lại ngụ ý về một cuộc đời trắc trở gập ghềnh.
  • “Hoa ghen thua thắm”: Chỉ đôi môi đỏ như son, khiến hoa cũng không sánh được, đôi lúc cũng hiểu là nhan sắc quá đỗi rực rỡ của Kiều, khiến hoa cũng tự thấy xấu hổ, giận dỗi (tham khảo vẻ đẹp “tu hoa” của Dương Qúy phi).
  • “Liễu hờn kém xanh”: Dáng người thướt tha, uyển chuyển tuyệt mỹ khiến liễu vốn nổi danh mềm mại cũng phải hờn.

=> “Một hai nghiêng nước nghiêng thành/Sắc đành đòi một tài đành họa hai”, ý chỉ vẻ đẹp của Kiều có lẽ cũng chẳng khác gì những Tây Thi, Điêu Thuyền thuở xưa, hồng nhan thì họa thủy, nghiêng nước nghiêng thành là có thật.

* Vẻ đẹp tài trí:

  • Giỏi thi ca, âm luật.
  • Thông thạo món đàn tỳ bà.
  • Biết sáng tác cầm khúc, thế nhưng khúc nhạc “Bạc mệnh” buồn thương của nàng lại thể hiện tính đa cảm, cùng lúc đó cũng là dự đoán về một cuộc đời hồng nhan vô phúc của nàng.

e. Bốn câu thơ cuối: Nếp sống của chị em Thúy Kiều

  • Cuộc sống sung túc, êm ấm.
  • Hai chị em đã đến tuổi cập kê nhưng vẫn thanh thuần, không hề biết tình ái là gì, giữ gìn nền nếp gia phong một phép.

3. kết bài

Nêu cảm nghĩ cá nhân về đoạn trích.

Phân tích Chị em Thúy Kiều hay và ngắn gọn nhất

1. Phân tích bốn câu thơ đầu Chị em Thúy Kiều: Giới thiệu hình ảnh Chị em Thúy Kiều

Ở tác phẩm thuộc chương trình văn học cấp 3 này, Nghệ thuật ước lệ, điển cố được Nguyễn Du dùng nhuần nhuyễn trong 4 câu thơ mở đầu đoạn trích. Qua bốn câu thơ này, tác giả đã giới thiệu khái quát về lai lịch, vị trí trong gia đình cũng như vẻ đẹp của hai chị em Kiều:

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười.”

Hai câu thơ mở đầu đoạn trích đã thể hiện vai vế và giới thiệu về hai nàng “tố nga” trong gia đình Vương viên ngoại:

– Nhà thơ sử dụng từ ngữ “ả tố nga” – một từ mượn tiếng Hán đắt giá, có ý chỉ những người con gái mang vẻ đẹp tựa trăng trên trời.

– Câu thơ đầu tiên hàm ý kể về hai người con gái đầu lòng trong gia đình họ Vương, sau đấy ngay trong câu thơ tiếp Nguyễn Du viết về vị trí và danh xưng của hai nàng.

– Câu thơ “Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân” thể hiện vai vế của hai chị em, cùng lúc đó cũng giới thiệu cho người coi về tên của hai nàng tố nga.

=> Chỉ qua hai câu thơ, Nguyễn Du đã đưa cho người coi hình dung khái quát về hai cô con gái đầu lòng nhà Vương ông, với người chị tên Thúy Kiều và người em tên Thúy Vân. Hai người đều là những người con gái rất đẹp.

Ngay sau đấy, Nguyễn Du gợi tả vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều bằng cách so sánh nét đẹp với hình ảnh thiên nhiên như hoa mai hay hoa tuyết:

– Bút pháp ước lệ gợi độc đáo về vẻ đẹp với cốt cách như mai, thanh tao, và cốt cách trong trắng, tinh khôi như tuyết. Điển cố “Mai cốt cách” được dùng nhằm miêu tả cốt cách hai chị em thanh cao như hoa mai. Hoa mai, một loài hoa đẹp cả sắc lẫn hương: sắc thì rực rỡ, hương thì sang trọng. Việc miêu tả cốt cách hai người với loài hoa này giúp người đọc đạt được độc đáo về tính cách và phong thái của hai chị em. đó là một cốt cách đầy thanh cao, diễm lệ.

– dùng điển cố “Tuyết tinh thần” để nhấn mạnh một lần nữa vẻ đẹp nội tại của hai nàng Kiều. Cả Thúy Vân và Thúy Kiều đều mang tinh thần của tuyết trắng. Tuyết vốn là một thực thể có trong tự nhiên, có màu trắng và tượng trưng cho sự thuần khiết, trong trắng. Câu thơ này có ý nói cả hai chị em nhà Vương viên ngoại đều duyên dáng, trong trắng và tinh khôi như hình ảnh những bông tuyết.

– Nhịp thơ ở câu thơ thứ 2 và câu thơ thứ ba lần lượt là nhịp 4/4 và 3/3, đem đến cảm giác nhịp nhàng, đối xứng. người coi qua hai câu thơ có thể cảm nhận được vẻ đẹp đạt tới độ hoàn mỹ của hai chị em Thúy Kiều.

Lời bình của Nguyễn Du tóm lại khép lại bốn câu thơ đầu: “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”:

– “Mỗi người một vẻ” cho ta biết sự sai biệt của hai chị em, dù đều chung cốt cách thanh tao duyên dáng thì vẫn có những nét riêng từ nhan sắc, tính cách hay tâm hồn giữa hai chị em Thúy Kiều.

– “Mười phân vẹn mười” làm nổi bật và nhấn mạnh một lần nữa về vẻ đẹp toàn diện, hoàn hảo của Thúy Kiều và Thúy Vân.

=> Câu thơ vừa gợi sự tò mò của người đọc về sự không giống nhau giữa hai chị em, vừa nhấn mạnh sắc đẹp, tài năng của hai người. dùng câu thơ tóm lại tài tình giúp Nguyễn Du liên kết với những vần thơ mô tả chi tiết hai chị em phía sau.

=> có thể thấy chỉ qua 4 câu thơ giới thiệu vô cùng ngắn gọn, Nguyễn Du đã gửi tới người coi rất nhiều thông tin, từ đó đạt được độc đáo đậm nét về vẻ đẹp của hai nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều. Đây biến mất là nhân vật trong trang sách mà đã hiện ra sinh động trước mắt người đọcđồng thời, 4 câu thơ cũng gián tiếp bộc lộ cảm hứng yêu cái đẹp, niềm đam mê thưởng thức khen ngợi tài hoa, nhan sắc chúng ta của đại thi hào Nguyễn Du.

Xem Thêm  Phân tích Bình Ngô Đại Cáo đoạn 4 chọn lọc hay nhất
phân tích chị em thuý kiều
phân tích chị em thuý kiều

2. Phân tích bốn câu thơ tiếp theo: Hình tượng nhân vật Thúy Vân

sau khi gây tò mò cho người coi về vẻ đẹp khác nhau của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân; Nguyễn Du viết tiếp 4 câu thơ nhằm miêu tả hình tượng nhân vật Thúy Vân. Chỉ với 4 câu thơ, hình ảnh nhân vật Thúy Vân đã hiện lên trước mắt người coi một cách rất đầy đủ và hết sức trọn vẹn:

“Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

Câu thơ trước tiên được sử dụng để giới thiệu một cách khái quát về phong thái của Thúy Vân:

– Từ “xem” trong câu đầu là nhận xét chủ quan từ người mô tảngười đọc như được hòa vào dòng thời gian tới nơi hai chị em sinh sống, gặp trực tiếp Thúy Vân.

– Cụm từ “Trang trọng khác vời” như một lời khen dành cho Thúy Vân, khi Đây là một vẻ đẹp hết sức đoan trang, cao sang, lịch thiệp. Vốn đã mang trong mình vẻ đẹp cao sang của con gái quý tộc, nay Thúy Vân còn được Nguyễn Du nhận xét phần hơn với cụm “khác vời”. Qua đó có khả năng hình dung, vẻ đẹp của nàng có phần nhỉnh hơn những người khác.

=> Chỉ trong câu thơ đầu, phong thái Thúy Vân đã hiện lên như một người phụ nữ phong nhã, đoan trang trong khuôn phép và lễ giáo của xã hội thời phong kiến. đây chính là một ấn tượng tốt đẹp, đầy sức gợi.

Tiếp đấy, tác giả mô tả chi tiết bức chân dung tuyệt hảo của nhân vật Thúy Vân bằng bút pháp nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng nghệ thuật ẩn dụ, nhân hóa và so sánh:

– Với nghệ thuật ước lệ tượng trưng, vẻ đẹp của Vân được so với những thứ cao đẹp tuyệt hảo của thiên nhiên như trăng, hoa mây hay tuyết cùng ngọc. việc này giúp người đọc có được cái nhìn cụ thể hơn về cái đẹp mà Nguyễn Du mong muốn lột tả.

– Hình ảnh ẩn dụ “khuôn trăng đầy đặn” giúp hình dung về một khuôn mặt đầy đặn, phúc hậu, đẹp đẽ và trong sáng như khuôn trăng rằm. Trong khi đó, hình ảnh “nét ngài nở nang” lại vẽ lên một đôi lông mày sắc nét, cong như mày ngài. Văn học Việt Nam cũng có câu để tả vẽ đẹp của người phụ nữ đẹp “mắt phượng mày ngài”. Cặp lông mày ấy mang lại vẻ cân đối, hài hòa trên tổng thể gương mặt đầy trẻ trung của Thúy Vân.

– Hình ảnh nhân hóa “hoa cười ngọc thốt” được dùng trong câu thơ thứ ba mô tả một khuôn miệng tươi tắn tựa hoa nở cùng giọng nói trong trẻo thốt ra qua hàm răng ngọc. Một phần phong thái của Vân cũng đều được thể hiện ra vần thơ này – dịu dàng, tươi trẻ với khuôn mặt luôn tươi tắn, phong thái đoan trang, nhẹ nhàng.

– Trong câu tiếp theo, nghệ thuật nhân hóa cùng so sánh lại được Nguyễn Du vận dụng nhuần nhuyễn: “Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da”. Câu thơ này mong muốn chỉ mái tóc óng ả, xanh hơn, nhẹ hơn mây, da trắng mịn hơn tuyết của Thúy Vân.

– Thủ pháp lên danh sách cũng được dùng hết sức tài tình khi tác giả tập trung miêu tả đường nét gương mặt để chứng minh cho sự “đoan trang khác vời” đã nhắc trong câu thơ đầu đoạn. Nguyễn Du đã mô tả từ tổng thể tới chi tiết khuôn mặt Vân, từ gương mặt, tới nét mày, nụ cười, mái tóc rồi nước da. Bên cạnh đấy, Nguyễn Du cũng dùng nhiều từ ngữ tượng hình giàu sức gợi như “đầy đặn”, “nở nang” và “đoan trang” nhằm làm nổi bật và nhấn mạnh vẻ đẹp đầy đặn, phúc hậu, sang trọng của Thúy Vân.

– Hai từ “thua” và “nhường” trong câu thơ cuối được nhà thơ dùng một cách đắt giá. Hai sự vật “mây” và “tuyết” là những tạo vật từ thiên nhiên, hết sức to lớn, thậm chí có thể đại diện cho trời, hay suy rộng ra là xã hội phong kiến thời bấy giờ. Vẻ đẹp của Thúy Vân khi đối trọng với những sự vật đẹp nhất của thiên nhiên vẫn phù hợp và hài hòa trong khuôn khổ của xã hội phong kiến. Nàng vẫn được đón nhận, yêu thương với vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang của mình.

=> Từ bức chân dung miêu tả ngoại hình Thúy Vân, ta có khả năng thấy được tính cách cùng dự báo số phận tương lai của nàng. Vân là một người con gái đoan trang, dịu dàng, phúc hậu đầy sức sống – một người phụ nữ chuẩn mực trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Qua đấy, nhà thơ cũng hàm ẩn sự dự báo về một tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc sống của nàng.

3. Phân tích 12 câu thơ tiếp theo: Hình tượng nhân vật Thúy Kiều với vẻ đẹp toàn vẹn

– Khi mô tả hình tượng Thúy Vân, Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu thơ. thế nhưng, đến nhân vật Thúy Kiều, nhà thơ dùng đến mười hai câu. điều này chứng tỏ sự ưu ái và bút lực mà Nguyễn Du mong muốn dành để miêu tả nhân vật chính này

– Sự yêu mến đấy thể hiện qua nghệ thuật đòn bẩy được dùng hết sức tài tình: Nhân vật Thúy Vân được miêu tả trước như một tuyệt sắc giai nhân, “trang trọng khác vời” khiến “mây thua, tuyết nhường”. tất cả việc này có vai trò làm rõ nét vẻ đẹp của Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn.”

– so với Thúy Vân, Kiều lại là phần hơn. Từ “càng” được tác giả đặt trước hai từ láy “sắc sảo”, “mặn mà” nhằm tô đậm vẻ đẹp trí tuệ đầy sắc sảo cùng sắc đẹp mặn mà của nhân vật Thúy Kiều.

=> Dù không tả rõ ràng, Nguyễn Du lại làm nổi bật trước mắt người coi về một Thúy Kiều với nhan sắc và tài năng vượt trội so với người em Thúy Vân. Lối miêu tả này cũng sẽ giúp nhà thơ không rơi vào sự trùng lặp, ngoài những điều ấy ra giúp phát huy thêm trí tưởng tượng của đọc giả. việc này thể hiện cái tài của Nguyễn Du.

a. Vẻ đẹp ngoại hình

Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du không mô tả rõ ràng, chi tiết ngoại hình hay cốt cách mà đặc tả ánh mắt Thúy Kiều theo lối “điểm nhãn”. Nhà thơ vẽ nên hồn của chân dung Kiều bằng những ảnh chụp mang tính ước lệ, tượng trưng:

“Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.”

– bức chân dung nàng Kiều hiện lên qua những ảnh ước lệ, ẩn dụ như “làn thu thủy, nét xuân sơn”. Qua nét bút của thi nhân, vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế hiện lên trước mắt người coi.

– ánh mắt là cửa sổ tâm hồn, thể hiện một phần tâm hồn và trí tuệ của người sở hữu chúng. Khi vẽ nên bức chân dung nàng Kiều, Nguyễn Du lại tập trung miêu tả vẻ đẹp đôi mắt.

– “Làn thu thủy”, vốn là nước mùa thu, được dùng gợi tả một đôi mắt trong sáng, tĩnh lặng mà lại long lanh, huyền ảo và lắng đọng như nước mùa thu.

– “Nét xuân sơn” giúp người coi nghĩ tới đôi lông mày thanh tú, mềm mại như dáng núi mùa xuân. khuôn mặt Kiều được phú cho đôi mày và mắt tựa những dáng hình đẹp nhất trong các mùa, là một minh chứng cho câu thơ “càng sắc sảo mặn mà” khi so sánh với em gái Thúy Vân.

– Cách miêu tả của Nguyễn Du trong hai câu thơ trên mang đậm nét truyền thống của văn học trung đại thời bấy giờ. bằng việc chấm phá xen lẫn với tỉ mỉ, tác giả chơi đùa với những câu thơ và đưa những miêu tả với sắc độ đậm nhạt đan xen với nhau tích hợp hết sức hài hòa.

– dùng hình ảnh nhân hóa “hoa ghen”, “liễu hờn” nhằm thể hiện thái độ của thiên nhiên tạo hóa trước vẻ đẹp của Thúy Kiều. Nguyễn Du một lần nữa không tả trực tiếp vẻ đẹp của Kiều mà khẳng định điều đó qua việc phơi bày sự đố kị, ganh ghét của tạo hóa.

=> Dung nhan nàng Kiều giờ đây không những sắc sảo mặn mà hơn Thúy Vân mà còn làm thiên nhiên hờn ghen. Vẻ đẹp Kiều đằm thắm tới hoa phải ghen, dáng vẻ trẻ trung tươi sáng đầy sức sống khiến liễu phải hờn.

Hai câu thơ tiếp theo vừa khẳng định thêm về nhan sắc của nàng Kiều và mang ẩn ý thêm về tài sắc của nàng giai nhân:

“Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

– Vẻ đẹp của Thúy Kiều một lần nữa được Nguyễn Du nâng lên thách thức mới khi sẽ khiến tạo vật thiên nhiên đố kị mà còn làm đắm say lòng người qua điển tích điển cố “nghiêng nước nghiêng thành”.

– “Nghiêng nước nghiêng thành” là cách nói thông minh từ điển cố “nhất cố khuynh nhân thành, tái cố khuynh nhân quốc”. Câu nói này lược dịch có nghĩa là “giai nhân ngoảnh lại nhìn một lần làm nghiêng thành người, giai nhân ngoảnh lại nhìn lần nữa làm nghiêng nước người. Vẻ đẹp của Thúy Kiều được nâng lên bằng với tuyệt sắc giai nhân, khiến nước phải nghiêng, thành phải đổ. không những đạt được nhan sắc tột bậc, nàng còn mang trong mình tài năng, thể hiện qua câu thơ “Sắc đành đòi một tài đành họa hai.”

– Dung nhan của Thúy Kiều Đem lại độc đáo mạnh cùng sức gợi lớn cho người coiđó là vẻ đẹp của bậc tuyệt thế giai nhân, vẻ đẹp thách thức và hơn cả những khuôn phép của tạo hóa.

=> Nét đẹp của Thúy Kiều phần nào dự báo về tính cách và số phận của nàng. Cái đẹp của nàng không hài hòa mà vượt qua ranh giới phép tắc chuẩn mực của tạo hóa, xã hội. Dung nhan nàng khiến các vẻ đẹp khác của thiên nhiên ganh ghét, oán hận và đố kị; gây ra những ý mong muốn trả thù. Nguyễn Du đã dự đoán về một vài phận sóng gió và đầy trắc trở bởi “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau.”

b. Vẻ đẹp của tâm hồn và tài năng hơn người

Vẻ đẹp ngoại hình của Kiều vốn xem là một giai nhân tuyệt thế. nhưng chưa dừng lại ở đó, Nguyễn Du còn miêu tả nàng với những dấu hiệu của một người phụ nữ thông minh, có trí tuệ thiên bẩm và tài năng ở đa lĩnh vực:

“Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lâu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một chương.”

– Việc miêu tả Kiều với vẻ đẹp trí tuệ là một sự táo bạo, sự đột phá trong văn học của Nguyễn Du. Hiếm khi trong văn học trung đại, các tác giả xem sự thông minh xuất chúng của người phụ nữ là một phương diện để ca ngợi. Bởi lẽ, người phụ nữ trong xã hội phong kiến thường chỉ được gán với các đức tính như “công, dung, ngôn, hạnh”, “cầm – kì – thi – họa” hay “tam tòng, tứ đức” và không hề có khía cạnh sáng tạo.

=> khen ngợi sự sáng tạo của Kiều trong thực trạng của xã hội phong kiến lúc bấy giờ có thể coi là một sự bứt phá, dũng cảm và táo bạo mà chỉ Nguyễn Du mới thực hiện được. Ông đã đưa nhân vật Kiều – một người phụ nữ với vẻ đẹp hoàn hảo, vượt khỏi những khuôn mẫu tiêu chuẩn khắt khe của xã hội phong kiến – một môi trường trọng nam khinh nữ sâu sắc.

– Kiều là một người con gái nhiều tài lẻ: nàng thành thục từ chơi đàn (cầm), chơi cờ (kì), ngâm thơ (thi) và vẽ (họa). không chỉ thế tài nào nàng cũng đạt đến độ xuất chúng.

đáng chú ý, tài năng chơi đàn của Kiều đã được Nguyễn Du miêu tả:

– “Làu bậc ngũ âm”, “ăn đứt hồ cầm”: tác giả thể hiện rằng đàn là năng khiếu, là sở trường của Kiều. năng lực chơi đàn của nàng điêu luyện và chuyên nghiệp vượt trên năng lực của người thường

Xem Thêm  Top 10 bài phân tích Tràng Giang khổ 1 của Huy Cận

– Kiều có sự đồng cảm về âm nhạc: âm luật xưa nay nàng đều nắm chắc; nàng còn rất am tường năm cung bậc trong âm luật là cung, thương, giốc, trủy, vũ, hiểu về cách xếp theo giọng đục trong, cao thấp trong âm nhạc

– không những đàn hay, Kiều còn có khả năng sáng tác. Khúc “Bạc mệnh” được nói đến trong câu thơ chính là giai điệu mà nàng tự viết. Giai điệu da diết đến nỗi khi cất lên, ai ai cũng xúc động và bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc

– mô tả tài năng chơi đàn là cách mà Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa một thế giới tâm hồn nhạy cảm, đa sầu, đa cảm bên trong Thúy Kiều. Bởi lẽ nghệ thuật phản ánh tâm hồn người nghệ sĩ. Chỉ những người có một tâm hồn nhạy cảm, tinh tế mới có khả năng viết lên được những khúc nhạc chạm đến trái tim người nghe.

– đặc biệt, tác giả nhắc đề cung “Bạc mệnh”, khúc nhạc do Kiều tự sáng tác. Nhan đề “Bạc mệnh” như dự báo trước cuộc đời bấp bênh, hồng nhan bạc mệnh khó tránh khỏi của nàng.

– Những từ ngữ Nguyễn Du sử dụng để mô tả tài năng của Thúy Kiều cũng hết sức đặc sắc. Khi thì dùng những từ mang tính đề cao như “vốn sẵn tính trời”, “đủ mùi” hay “làu”, “ăn đứt” để thể hiện tài năng không ai sánh kịp. Khi dùng từ ngữ mang tính nhún nhường, khiêm tốn như “pha nghề thi họa” tuy nhiên ẩn sâu trong đó là sự thán phục, trân trọng của tác giả trước tài năng hiếm có, toàn năng của một người thiếu nữ.

=> có khả năng nói, lần đầu tiên trong quá khứ văn học trung đại, hình ảnh người với vẻ đẹp phụ nữ hoàn mĩ từ hình thức đến tâm hồn được thể hiện bằng một giọng ca ngợi đầy trân trọng như cách Nguyễn Du viết về Thúy Kiều

=> Qua mười hai câu thơ, tác giả đã thể hiện sinh động vẻ đẹp hội tụ sắc – tài – tình, tất cả đều đến mức lí tưởng, xuất chúng của nhân vật Thúy Kiều. cùng lúc đócho thấy sự tài hoa, tinh tế của Nguyễn Du trong cách vận dụng nghệ thuật miêu tả nhân vật.

4. Phân tích 4 câu thơ cuối: Lời nhận định của Nguyễn Du về xuất thân và vẻ đẹp phẩm hạnh của chị em Thúy Kiều

– sau khi khắc họa lên tấm hình chân dung của hai chị em Vân và Kiều, Nguyễn Du đã có những lời đánh giá về cuộc sống của hai người qua 4 câu thơ cuối đoạn trích:

“Phong lưu rất mực hồng quần,

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

Qua đấycó thể thấy, hai chị em Thúy Vân, Thúy Kiều không những là những người phụ nữ có vẻ đẹp toàn vẹn, bậc tuyệt thế giai nhân mà họ còn là những người con gái đức hạnh, có lối sống khuôn phép:

– hoàn cảnh xuất thân: hai chị em là con đầu lòng trong một gia đình phong lưu, gia giáo. Có cha làm quan và được giáo dục cẩn thận về khuôn phép, nề nếp, lễ nghĩa.

– Cuộc sống: ấm áp, êm đềm, bình lặng, đang trong độ tuổi lập gia đình nhưng rất kín đáo và ít có sự ăn nói ngoài xã hội

– Cụm từ “Xuân xanh xấp xỉ”, “tuần cập kê” gợi đề cập đến cái tuổi “tóc búi, trâm cài” của cả hai chị em. Tuy đã đến tuổi lập gia đình, tuy nhiên họ vẫn sống kín đáo, chưa từng biết tới chuyện nam nữ.

– Thành ngữ “trướng rủ màn che” thể hiện lối sống khép kín, đặc trưng của những nàng tiểu thư nhiều năm trước. Họ xinh đẹp, tài năng nhưng cũng đều được gia đình bao bọc hết mực. Những nàng tiểu thư này thường chỉ sinh hoạt trong nhà, học về nữ công gia chánh, khuôn phép và gần như không có có khả năng ăn nói với thế giới bên ngoài

– Hình ảnh “ong bướm” ẩn dụ cho những người đàn ông tán tỉnh phụ nữ để thỏa mãn thú vui. Với vẻ đẹp toàn vẹn của hai chị em Kiều, chắc hẳn có không ít đối phương trai để ý và tán tỉnh. tuy nhiên, cả hai chị em đều miễn nhiễm, không thèm để ý, giữ cho mình sự danh giá của những tiểu thư quý phái.

=> Hai chị em Kiều tuy là những thiếu nữ trưởng thành với vẻ đẹp vẹn toàn từ nhan sắc đến tài năng, tuy nhiên với lối sống kín đáo, họ vẫn giữ được tâm hồn trong trắng. Sự thuần khiết của họ tựa như hai bông hoa vẫn còn trong nhụy, được nâng niu, che chở và chưa một lần hương tỏa vì ai. đấy chính là nét đẹp tính chất cao đẹp, đúng với khuôn phép, tiêu chuẩn của lễ giáo phong kiến.

5. Cảm hứng nhân văn qua đoạn tríchh Chị Em Thuý Kiều

– Cảm hứng nhân văn trong văn học có thể hiểu là tất cả những tư tưởng, khái niệm, tình cảm của tác giả về các giá trị cao đẹp của chúng ta. Chúng được gài gắm và chuyển hóa qua những câu văn giàu cảm giác trong tác phẩm

– Cảm hứng nhân văn của “Chị em Thúy Kiều” được thể hiện qua cách Nguyễn Du ca ngợi vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều. Ông đã thể hiện sự trân trọng và đề cao những thành quả, vẻ đẹp của con ngườiquan trọng nhất là người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Họ không chỉ có vẻ đẹp về nhan sắc, tài hoa, phẩm hạnh mà còn có ý thức sâu sắc về thân phận của chính mình

– Cảm hứng nhân văn thể hiện qua những dự cảm đầy xót thương về kiếp những con người hồng nhan bạc mệnh, tài mệnh tương đố trong xã hội. Từ giọng điệu đến hình ảnh thơ trong đoạn trích đều phảng phất nỗi lo lắngdự báo của Nguyễn Du về số phận bấp bênh của nàng Kiều – một kiếp người tài hoa bạc mệnh.

=> Qua đoạn thơ, ta có khả năng cảm nhận trái tim như hòa cùng cảm hứng sáng tạo của tác giả. Từ đó khơi dậy tình yêu thương, trân trọng chúng ta và thông cảm cho những kiếp người “hồng nhan bạc mệnh”, bị xã hội đàn áp đến tận cùng. đó cũng chính là cách Nguyễn Du biểu hiện tấm lòng thương cảm sâu sắc, tràn đầy cảm hứng nhân văn của mình qua những áng thơ đầy ý nghĩa.

phan-tich-doan-trich-chi-em-thuy-kieu
phan-tich-doan-trich-chi-em-thuy-kieu

Bài văn đo đạt Chị em Thúy Kiều (mẫu số 1)

Đọc “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du thì có mấy ai là không nhớ đến vẻ đẹp sắc nước hương trời của hai người con gái đầu lòng của ông bà Vương viên ngoại trong trích đoạn “Chị em Thúy Kiều”

“Đầu lòng hai ả tố nga

Thúy Kiều là chị em là Thúy Vân

Mai cốt cách tuyết tinh thần

mỗi cá nhân một vẻ mười phân vẹn mười.”

Chỉ với bốn câu thơ thôi, với bút pháp ước lệ cùng phép ẩn dụ đã gợi lên đã làm rõ cho thấy được hình ảnh hai người con gái đẹp mắt, dáng vẻ mảnh mai, thanh tao như mai; tâm hồn thuần khiết như tuyết. Vẻ đẹp ấy đã đạt đến độ mười phân vẹn mười nhưng dưới ngòi bút của Nguyễn Du mong muốn tô đậm nhạt cho vẻ đẹp ấy “mỗi người một vẻ”, không ai lấn át ai.

Trước hết là vẻ đẹp đoan trang, đầy đặn và phúc hậu nhưng cũng không kém phần yêu kiều của Thúy Vân:

“Vân xem trang trọng khác vời

Khuôn trăng đầy đặn, nét mày nở nang

Hoa cười, ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”

có thể từng đường nét trên khuôn mặt Thúy Vân là một kì công của tạo hóa, đạt đến độ tiêu chuẩn của nét đẹp thời xưa: gương mặt tròn đầy, tươi sáng như ánh trang, đôi mày thanh thoát, miệng cười chúm chím như hoa, lời nói trong trẻo như ngọc thốt, mái tóc óng ả như mây, làn da trắng mịn như tuyết. Sắc đẹp của Vân sánh với những nét kiều diễm, sáng trong của những báu vật tinh khôi của đất trời. Vân nét hơn những gì mĩ lệ của thiên nhiên tuy nhiên tạo hòa lại hài hòa, êm dịu với vẻ đẹp ấy: mây thua, tuyết nhường. chỉ cần đọc đến đây thôi ta có thể dự thấy một cuộc đời bình lặng, suôn sẻ cho một tương lai của Thúy Vân. Qua bước tranh chân dung, Nguyễn Du đã gửi đến những thông điệp về tương lai của Thúy Vân qua bức tranh này

Tả Vân thật kĩ, thật rõ ràng song Nguyễn Du chỉ vẽ Kiều bằng những nét phác họa thông thoáng

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So về tài sắc lại là phần hơn.”

Đặt trong sự so sánh với vẻ đẹp đoan trang, sang trọng của Vân để làm rõ nét nhan sắc của Kiều. Thúy Kiều mang vẻ sắc sảo của tài năng, trí tuệ, cái mặn mà của nhan sắc. Khác với Thúy Vân, Nguyễn Du chọn miêu tả ánh mắt của Kiều, chọn phần cửa sổ tâm hồn để miêu tả cho tâm hồn và trí tuệ

“Làn thuy thủy nét xuân sơn.”

Câu thơ chỉ mô tả ánh mắt tuy nhiên gợi được lên cả một bức tranh sơn thủy, diễm lêm. Bức tranh ấy có làn thu thủy – làn nước mùa thu, có nét xuân sơn – dáng núi mùa xuân. cũng như khuôn mặt Kiều có đôi mắt trong sáng, long lanh, có đôi lông mày thanh tú khiến hoa cũng phải ghen, liễu cũng phải hờn. Vẻ đẹp ấy vượt trội thiên nhiên, khiến muôn hoa cảnh sắc ghen ghét, dỗi hờn. trái lại với Vân, đên đây thôi ta cũng có thể dự cảm một tương lai của Kiều, khó tránh khỏi sự nghiệt ngã của định mệnh.

“Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương lầu bạc ngũ âm,

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.”

không chỉ có sắc, Kiều còn biết cầm – kì – thi – họa. Nàng giỏi âm luật đến mức làu bậc. Để đặc tả cái tài của Kiều, Nguyễn Du sử dụng hàng loạt các từ ở mức tuyệt đối: vốn sẵn, pha nghề, làu bậc và đủ mùi. không chỉ giỏi ca hát, chơi đàn mà Kiều còn có thể sáng tác nhạc. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp giữa sắc – tài – tình và đã đạt đến mức cao siêu, lý tưởng. Chính bởi Kiều quá toàn mĩ, cải thiện nên trong xã hội phong kiến khó mà có chỗ đứng cho nàng. Và Cung Bạc mệnh nàng tự sáng tác cho mình như dự đoán một cuộc đời hồng nhan mà bạc mệnh của Kiều.

cho dù tài sắc của Thúy Kiều, Thúy Vân không giống nhau dự đoán về tương lai, cuộc sống không giống nhau nhưng đức hạnh hai nàng đều đáng trân trọng, điều này thể hiện ở bốn câu cuối

“Phong lưu rất mực hồng quần

Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê

Êm đềm trướng rủ màn che

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.”

cho dù đã đến tuổi cập kê nhưng “hai ả tố ngã” đã và đang sống trong nề nếp, gia giáo, cuộc sống của các thiếu nữ khuê phòng không hề có biểu hiện của một tình yêu thiếu đúng đắn.

Như vây, tác giả đã khắc họa được chân dung hai người thiếu nữ với tất cả sắc, tài, tình, mệnh. Đằng sau bức tranh chân dung Thúy Kiều là tấm lòng ngợi ca trân trọng của tác giả – đó là một biểu hiện của tinh thần nhân văn trong Truyện Kiều, qua đây ta hiểu thêm và trân tringj thêm vẻ đẹp của con ngườiquan trọng nhất là người phụ nữ.

Tổng kết chung phân tích đoạn trích Chị Em Thuý Kiều

Qua đoạn trích phân trên đây của trang web vanhoc.edu.vn “Chị em Thúy Kiều”, Nguyễn Du đã khắc họa rõ nét tấm hình chân dung vẻ đẹp từ ngoại hình đến nhân phẩm của chị em Thúy Vân và Thúy Kiều. Vẻ đẹp của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân cũng chính là vẻ đẹp chuẩn mực, lí tưởng của phụ nữ trong xã hội phong ki

ến. Đoạn trích không chỉ là lời ngợi ca vẻ đẹp tài năng của chúng ta mà còn là dự đoán về số phận bấp bênh của một kiếp người tài hoa bạc mệnh.

Similar Posts