Phân tích 12 câu thơ đầu đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Phân tích 12 câu thơ đầu đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Phân tích 12 câu thơ đầu đoạn trích tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trong tác phẩm “Đoàn Thị Điểm” giúp ta hiểu rõ hơn về những suy nghĩ và tình cảm mà tác giả mong muốn truyền đạt về chúng ta và xã hội thời đóphía dưới là dàn ý và các mẫu phân tích để các em có khả năng tìm thêm ý tưởng cho bài content của mình và nâng cao hiểu biết về tác phẩm hay trong văn học cấp 3. Nào hãy cùng Vanhoc.edu.vn tham khảo ngay nhé!

Dàn ý phân tích 12 cầu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

I. Mở bài:

Trong đoạn văn, ta được giới thiệu về tác giả Đặng Trần Côn và dịch giả Đoàn Thị Điểm, cùng với tên tuổi, con người và sự nghiệp văn chương của họ. ngoài những điều ấy ra, tác phẩm “Chinh phụ ngâm” cũng đều được giới thiệu với hoàn cảnh sáng tác và một đoạn trích tả cảnh lẻ loi của người chinh phụ, nêu rõ vị trí và nội dung của đoạn trích đó.

II. Thân bài:

Tình cảm cô đơn, lẻ loi của người chinh phụ.
Đoạn trích bắt đầu bằng việc miêu tả những hành động lặp đi lặp lại một cách nhàm chán, vô vị của người chinh phụ. Bước chân thầm lặng dạo trên hiên vắng và vào trong phòng cuốn rèm, buông rèm thể hiện sự bần thần, bất định của người chinh phụ.

Chữ “vắng, thưa” không những gợi sự vắng lặng của không gian mà còn thể hiện nỗi trống vắng trong lòng người chinh phụ. Người phụ nữ thao thức ngóng trông tin tức về chồng cả ban ngày và ban đêm, nhưng cuối cùng vẫn chẳng thấy dấu vết của tin tức.

Hình ảnh ghen tị “hoa đèn” và “bóng người” nhấn mạnh sự cô đơn và trống rỗng một khi kỳ vọng vẫn không thành.

Cảm nhận khác thường của người chinh phụ về ngoại cảnh và thời gian.
những ảnh chụp gắn với cuộc sống thôn quê bình dị, yên ả như “gà gáy,” “sương,” “hòe” bỗng trở nên khác thường, hoang vu, ớn lạnh trong con mắt trống trải của người chinh phụ. Cảnh vật cũng giống như thời gian đều đóng nhiệm vụ luôn đi chung với nỗi cô đơn tột cùng tột độ trong lòng người.

hoạt động gắng gượng giữ vững nếp sống hằng ngày.
Người chinh phụ gượng gạo điểm hương, soi gương, gảy đàn sắt đàn cầm để ôn lại kỷ niệm vợ chồng. nhưng sau đósợ về điềm gở và nỗi khát khao hạnh phúc lứa đôi cũng hiện rõ.

III. Kết bài:

Trong đoạn trích, tác giả đã khắc họa tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người chinh phụ thông qua việc dùng nghệ thuật trầm buồn, khắc khoải, da diết, trầm lắng. Từ đóngười đọc cảm nhận được nỗi đau khổ của con người và sự đồng cảmchia sẻ của tác giả.

ngoài những điều ấy ra, đoạn trích cũng kết nối với số phận của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải xa chồng vì chiến tranh phi nghĩa, như Vũ Nương. việc này nhấn mạnh sự phê phán của tác giả đối với chiến tranh phi nghĩa, khi nó tước đi hạnh phúc và gây đau khổ cho người phụ nữ.

Đoạn văn đã thành công trong việc miêu tả và tả cảm nỗi cô đơn, nỗi nhớ và đau khổ của người chinh phụ, cùng lúc đó thể hiện sự chia sẻ và đồng cảm của tác giả.

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ - Đặng Trần Côn

Sơ đồ tư duy phân tích

Sơ đồ tư duy phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Phân tích 12 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 1:

Trong văn học trung đại, nhiều thi nhân đã sử dụng thơ và khúc ngâm để lên án sự suy tàn của xã hội phong kiến và ngợi ca những khát khao hạnh phúc của con ngườiVD, Vương Xương Linh ở thời Đường ở Trung Quốc đã viết Khuê oán để oán ghét cuộc tranh đấu tranh phi nghĩa. Thời Lê ở nước ta, Đặng Trần Côn thông cảm trước số phận đáng thương của phụ nữ có chồng đi lính và viết Chinh phụ ngâm. Trong tác phẩm này, câu đầu tiên nêu lên tình cảnh và tâm trạng cô đơn, buồn khổ của người chinh phụ trong thời gian khá dài chờ đợi chồng trở về:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Tâm trạng người chinh phụ được thể hiện qua việc rải bước trong hiên vắng, ngồi một mình, thầm gieo bước tiến mình, như đếm từng ngày chồng đi. Những bước tiến thầm lặng, nặng trĩu u sầu, đong đầy thương nhớ như bước tiến của người cung nữ trong Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều. Cô đơn, buồn chán tràn ngập trong những buổi đi dạo của người chinh phụ, không còn vẻ ung dung, an nhàn như Thúy Kiều khi đi tìm người yêu. Người chinh phụ mong ngóng tin tức của chồng bằng tiếng gáy của chim thước, nhưng chúng không đến, khiến nàng tuyệt vọng. Khao khát sum vầy, hơi ấm gia đình khiến nàng đớn đau và thất vọng. hiện trạng cô đơn của nàng càng khiến nàng không có ai để trút bầu tâm sự, chỉ có thể ôm đèn dầu mong muốn được sẻ chia tâm tư:

“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Rầu rĩ nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Tâm trạng đớn đau, thương nhớ và sự bế tắc của người chinh phụ càng được tô điểm bằng hình ảnh tiếng gáy của gà và bóng của cây hòe trong đêm. Tiếng gáy của gà mang lại sự u sầu, chán chường, và cây hòe thì tượng trưng cho những sợ, buồn bã. Từ láy “đằng đẵng” miêu tả thời gian trôi đi chậm chạp, kéo dãn nỗi buồn và tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. toàn bộ những cảm giác này khiến người đọc đồng cảm và cảm nhận cụ thể tâm tư tình cảm của nhân vật trữ tình.

Top 6 Bài văn Cảm nhận 16 câu đầu bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ (Ngữ văn 10) hay nhất - AllTop.vn

Phân tích 12 câu đầu Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 2

Thân phận người phu nữ luôn là đề tài muôn thủa trong các tác phẩm văn học Việt Namnếu như “Truyện kiều” của Nguyễn Du là lời than về số phận bạc mệnh của Kiều thì “Chinh phụ ngâm” của Đặng Trần Côn lại là nỗi sầu của người chinh phụ khi phải xa chồng trong thời ki chiến tranh loạn lạc. Với bản diễn nôm rất thành công của Đoàn Thị Điểm “Chinh phụ ngâm”đã biến thành một trong những tác phẩm tiêu biểu của nền văn học trung đại Việt Nam. Đọc tác phẩm này, đặc biệt là đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ”, chắc chắn không ai có khả năng bỏ xót được 12 câu đầu của đoạn trich với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình vô cùng đặc sắc. Đoạn thơ đã diễn đạt nỗi cô đơn buồn tủi trong cảnh khắc khoải chờ chồng của người chinh phụ một cách sâu sắc.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,

…………………………………

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Đoạn thơ đã mở ra trước mắt người coi một môi trường chật hẹp, nơi thềm hiên vắng lặng, địa điểm mà người chinh phụ đang cố gắng vượt qua sự cô đơn trống vắng khi người chồng đã đi xa. bằng cách dùng điêu luyện nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, Đặng Trần Côn đã vẽ nên bức tranh tâm trạng đầy xúc động, thể hiện nỗi sầu của người chinh phụ cũng giống như bút pháp tinh tế của ông trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.

Đúng như nhan đề của tác phẩm, đoạn thơ là tâm trạng cô đơn trống vắng của người chinh phụ. một khi tiễn chồng ra trận nàng trở về trong nỗi chờ mong khắc khoải :

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước

Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”

Trong đêm thanh vắng quạnh hiu này, chỉ có tiếng bước chân của nàng, một mình đối diện với bản thân mình. Bước chân ấy đi đi lại lại trên hiên tuy nhiên có lẽ tâm trí nàng đang chìm đắm trong miên man. Mỗi bước chân là một nỗi nhớ, mỗi bước chân là một nỗi lo, toàn bộ đang làm cho tâm trạng nàng nặng trĩu lo âu và thương nhớ người chồng đang chinh chiến ở ải xa. Người chinh phụ hết đi đi lại lại, rồi lại buông rèm, cuốn rèm không biết bao nhiêu lần…Đây là những động tác, cử chỉ và hành động được lặp lại nhiều lần mà không hề có mục đích của người chinh phụ. Phải chăng nó chỉ để biểu lộ tâm trạng cô đơn lẻ loi của nàng mà không hề biết san sẻ cùng ai :

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin

Trong rèm dường đã có đèn biết chăng

Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

nếu như ở câu trước người chinh phụ “ngồi rèm thưa” để ngóng đợi tin chồng, thì ở câu thơ này người chinh phụ ngóng con chim thước- mong được bao tin lành tuy nhiên chẳng thấy. Nàng lại quay về với không gian chật hẹp của căn phòng, nơi mà nàng dối diện với bóng mình, đối diện với người bạn đèn. tuy nhiên thật chớ trêu, đèn dù sao chỉ là một vật vô tri vô giác, có biết cũng như không. Câu hỏi tu từ “Đèn có biết.. Chẳng biết” là một lời than thở, là nỗi khắc khoải mong đợi và hi vọng trong nàng day dứt không yên. Tâm trạng của người chinh phụ đã chuyển giọng tự nhiên từ lời kể bên ngoài thành lời tự độc thoại nội tâm, da diết, dằn vặt và ngậm ngùi. Nàng quả là một người đáng thương! Hình ảnh ngọn đèn hoa đèn cùng với hình ảnh cái bóng trên tường gợi cho người đọc nhớ đến những ngọn đèn không tắt trong nỗi nhớ của gười thiếu nữ trong bài ca dao quen thuộc:

“Đèn thương nhớ ai

Mà đèn chẳng tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên”

Trong đêm vắng chỉ có ngọn đèn có áng sáng, nó càng làm nổi bật đêm tối mênh mang và nỗi cô đơn dường như nhân lên gấp bội trong lòng người thiếu phụ.

Phân tích 16 câu đầu chinh phụ ngâm chọn lọc đạt điểm cao

Với bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ đã khéo léo dùng thời gian của thiên nhiên, chúng ta để diễn đạt tâm trang khắc khoải chờ của người chinh phụ:

“Gà eo óc gáy sương năm trống

…………………………………

Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng gà eo óc, tiếng trống canh là báo hiệu của canh năm, báo hiệu rằng người vợ trẻ xa chồng đã thao thức suốt đêm, mong chờ mòn mỏi. Tiếng gà, bóng hòe ủ rũ càng làm khiến cho cảnh vật nơi đây thêm sự vắng vẻ, cô quạnh hoang vắng và đáng lo lắng. Người phụ nữ như chìm đắm vào trong đêm tối mênh mông, trong lo âu chờ đợi.

Cùng với thời gian là khung cảnh mênh mông vô tận như khắc sâu tô đậm nỗi sầu héo của người chinh phụ. Chỉ có một ‘khắc giờ” mà “đằng đẵng” như cả một năm. Và mối sầu được trải ra không gian của “miền biển xa”. toàn bộ được đo bằng thời gian vô định, không gian vô cùng. đây chính là thời gian và không gian của tâm trạng. Phải chăng, nàng luyến tiếc vì tuổi trẻ trôi đi vô dụng khi vẫn chưa có chồng ở bên. Những ngày tháng bên chồng đối với người chinh phụ là một quá khứ tươi đẹp tuy nhiên lại thật ngắn ngủi chóng vánh. Những từ láy “đằng đẵng”, “dằng dặc” lại càng tạo nên âm điệu buồn thương, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ tựa cửa chờ chồng.

Tóm lại, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình điêu luyện, cảnh mang hồn người cảnh và tình hòa hợp đẹp đẽ, Đặng Trần Côn đã khắc họa nên hình ảnh người thiếu phụ đang cố gắng thoát được khỏi nỗi cô đơn trống trải trong thương nhớ, mỏi mòn mà không biết chia sẻ cùng ai.

Đoạn thơ đề cập về tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng giống như toàn bộ tác phẩm “Chinh phụ ngâm” là tiếng kêu thương của người chinh phụ chờ chồng, nhớ thương chồng chinh chiến địa điểm ải xa. cuộc tranh đấu tranh phi nghĩa đã đẩy bao chàng trai ra trận và bao nhiêu số phận người phụ nữ phải héo hon chờ chồng. Phản ánh hiện thực xã hội này, Đặng Trần Côn đã khẳng định giá trị nhân văn cao cả của tác phẩm cũng như thái độ thông cảm chia sẻ của tác giả so với nỗi đau của người phụ nữ thời phong kiến. Đúng như Nguyễn Du đã từng viết:

Xem Thêm  15 mẫu tóm tắt Chữ người tử tù hay và ngắn gọn nhất

“Thương thay thân phận đàn bà

Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”

 

Bài Văn phân tích 12 Câu Đầu Tình Cảnh Lẻ Loi Nâng Cao

Tác phẩm Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn lấy bối cảnh những cuộc tranh đấu tranh phi nghĩa diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII. thông qua việc khắc họa hình ảnh nhớ thương, nỗi khổ đau của người chinh phụ khi chồng ra trận ở miền biên ải xa xôi, tác giả đã bày cất tiếng nói đồng cảm của mình với những người phụ nữ trong xã hội cũ cùng lúc đó lên án, tố cáo chiến tranh phi nghĩa. Tác phẩm được nhiều dịch giả nổi tiếng yêu quý dịch sang bản diễn Nôm nhưng bản dịch hay nhất có lẽ là bản dịch của Đoàn Thị Điểm. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ được trích trong tác phẩm gồm 25 câu thư từ câu 193 đến câu 216 đã diễn đạt nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những năm tháng chồng đi chiến trận.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết

Hạnh phúc là điều lớn lao mà ai cũng ao ước đạt đượcquan trọng nhất là đối với những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa thì hạnh phúc đến không hẳn là đơn giảnvì thế mà họ càng trân quý. Người chinh phụ trong tác phẩm phải chấp nhận xa chồng, càng xa chồng nàng càng cô đơn, buồn tẻ. Nỗi cô đơn ngập tràn cả khuê phòng, căn gác, tràn đầy cả không gian, thời gian. Trước hiên nhà, những bước đi chậm rãi, nặng nề và nhàm chán của người chinh phụ càng phơi bày nỗi cô đơn, chán chường hơn bao giờ hết. Hành động buông rèm xuống, kéo rèm lên như lặp lại tô đậm thêm nỗi cô đơn trong khuê các. Càng cô đơn, càng thương nhớ, trông chờ một tiếng lành từ chim thước từ xa nhưng chẳng có, nàng đành ngậm ngùi bên chiếc đèn khuya.

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”

Tìm đến đèn để tâm giao cho vơi bớt nỗi ưu sầu, mà đèn nào có biết. Cuối cùng, ánh đèn dẫu có sáng tỏa đó thôi tuy nhiên nào soi rọi được tâm hồn người chinh phụ, nào thấu được tâm can kẻ cô đơn. Ánh đèn, dẫu sau nó cũng là một vật vô tri, vô giác, nào có thể lặng nghe người chinh phụ giãi bày, thở than. Ánh đèn nào có khả năng thay được người chồng nơi biên ải, có thể cùng nàng sẻ chia nỗi ngọt bùi, đắng cay. Có chăng, ánh đèn ngày một hiu hắt như chính lòng người chinh phụ ngày một nặng nề, trĩu những nỗi u hoài khôn thấu. Nàng buồn bã trong khuê phòng với ánh đèn dầu hiu hắt mà xót thương cho số phận mình, tủi hổ cho cảnh lẻ loi, đơn chiếc vì chia ly của mình. Nỗi bi thiết của lòng nàng cất lên trong từng tiếng thơ ai oán, vừa như trách móc, vừa như xót xa cho thân phận chính mình:

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu nói chẳng nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Nỗi uất ức trong nàng như trỗi dậy, lòng người chinh phụ buồn tủi, đớn đau, nỗi lòng mình nàng “riêng bi thiết”, mình nàng chịu đựng. Hoa đèn in bóng người con gái cô độc trên khuê các càng tô đậm nỗi sầu trong đêm thâu. Đèn dần tàn, thời gian vẫn vậy cứ trôi đi, một mình, một bóng, gặm nhấm nỗi cô độc, sầu tủi, nỗi chán chường vì lẻ loi tận cùng.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng thở dài trong đêm thâu bởi hạnh phúc ấm êm bị chiến tranh phi nghĩa tước đoạt thật xót xa. Phải chăng lòng người buồn tủi, nỗi sầu thương nhuốm lên cả vị thời gian, màu không gian. Tiếng gà “eo óc” đếm thời gian trong đêm lạnh, bóng hòe “phất phơ rủ bóng” ngẩn ngơ bốn bề, tất cả đều đượm buồn thương. Thiên nhiên có thanh, có sắc mà chẳng có thu thập chút niềm vui dù là nhỏ bé, như chính trái tim người thiếu phụ đang độ tuổi xuân thì, khát khao hạnh phúc lứa đôi lại chịu cảnh cô đơn khôn thấu. Ngồi buồn đếm vị thời gian trôi, mỗi khắc thời gian tựa như một năm dài. Hình ảnh ghen tị liên kết với từ láy gợi hình” khắc giờ đằng đẵng như niên” càng tô đậm nỗi nhớ thương, đợi chờ.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Trong nỗi buồn tủi, sầu muộn, cô độc đến cùng cực ấy, người chinh phụ cố vực dậy tinh thần mình bằng việc tìm đến những thú vui bình thườngnhưng trớ trêu thay, tất cả mọi thứ dường như đều trở nên gượng gạo, bất lực trước tâm trạng chinh phụ. Hướng gượng đốt thì hương mê mải, gượng soi ngắm dung nhan thì không ngăn được dòng lệ nhớ thương. Tay gõ lên phím đàn mà lòng quặn thắt, lo lắng dây đứt, phím chùng lại lắng lo về những điều xảy ra sắp đến. mọi thứ dường như đều trở nên vô nghĩa, người chinh phụ càng làm, nỗi đau càng xoáy sâu trong tâm khảm, nỗi buồn càng day dứt chẳng nguôi ngoai.

“Lòng này gửi gió đông có tiện
ngàn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời

Càng cô đơn, tuyệt vọng, nỗi nhung nhớ lại càng dâng trào, mạnh mẽ. Người chinh phụ nhớ thương chồng tha thiết tuy nhiên đành bất lực vì khoảng cách quá xa xôi. “Non Yên” một hình ảnh ẩn dụ cho sự xa xôi, cách trở của người chinh phụ và kẻ chinh phụ. Vì nỗi nhớ thương da diết, không hề biết làm gì hơn, nàng đành gửi nỗi nhớ theo gió đông đến “Non Yên”. mong rằng, những nhớ thương ấy có khả năng là niềm động viên, ủi an cũng là nỗi mong mỏi cho chồng địa điểm xa được an toàn, đợi ngày trở về đoàn thủ. Từ láy “thăm thẳm”, “đau đáu” Kết hợp với cụm danh từ “đường lên bằng trời” đã đặc tả nỗi nhớ khôn nguôi, mênh mông và cao rộng đến tận cùng trong người chinh phụ. Qua đó bộc lộ được tình yêu tha thiết, thủy chung son sắt của người con gái khi yêu.

“Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Đúng như ai đó đã từng viết:

“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”

Trong những dòng thơ cuối, bút pháp tả cảnh ngụ tình một lần nữa được tác giả dùng đầy tinh tế. Cảnh buồn với sương đượm cành, thanh âm của tiếng côn trùng réo rắt, mưa phùn mênh mang như chính lòng người thiếu phụ lúc này: buồn ưu, cay đắng, đơn côi giữa dòng đời.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã chạm đến trái tim bao người đọc bởi những rung động tình cảm bình thường nhất. đấy là sự đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, là sự trân trọng vẻ đẹp một tâm hồn của người phụ nữ khi yêu và sự căm phẫn trước chiến tranh tàn ác đã đẩy bao chúng ta phải chịu khổ đau, chìa lìa như người chinh phụ.

Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất

Nếu như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khẳng định những giá trị nhân văn và phản ánh số phận người phụ nữ, vận dụng nhuần nhuyễn thể loại ngâm khúc và thể thơ song thất lục bát thì diễn Nôm Chinh phụ ngâm hướng nhiều hơn tới cuộc sống đời thường. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cho ta biết niềm thương và nỗi nhớ đau đáu nào nguôi của người vợ nhớ chồng ra trận và nghệ thuật diễn Nôm đáng chú ý xuất sắc của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm.

mở bài bài thơ là nhận thức của nhân vật về hoàn cảnh của mình chiêu ứng với thời gian hóa thành vô vị, mất hết sinh khí. Nhân vật chủ thể trữ tình – người chinh phụ xuất hiện:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”.

“tấm rèm” và “bóng đèn” là hai hình ảnh tưởng như vô tri nhưng lại như khơi nguồn cảm xúc. Trong một môi trường chật hẹp, tù đọng, câu thơ chuyển tiếp Trong rèm dường đã có đèn biết chăng càng tô thêm vẻ vắng lặng, đơn côi, khi hoa đèn kia với bóng người khá thương… cụ thể cuộc đời người chinh phụ hầu như đã mất hết sức sống, chúng ta đã bị “vật hoá” tựa như tàn đèn cháy đỏ kết lại đầu sợi bấc, vừa đối xứng đồng dạng và là hiện thân của chính kiếp hoa đèn tàn lụi đến cảnh sống cũng hiu vắng lẻ loi “gà eo óc gáy sương”, “hoè phất phơ rủ bóng”…

“Khắc chờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”.

Dòng thời gian xoay vần mà dài như cả năm trường, mối sầu trào dâng như biển lớn mênh mang, ngân xa như tiếng thở dài của người thiếu phụ đăm đắm chờ chồng. Rút cuộc, hình bóng người chinh phụ có xảy ra trở lại cũng không thoát được khỏi nỗi nhớ nỗi sầu đã nhuộm màu nước mắt để “Hương gượng đốt”, “Gương gượng soi”, “Sắt cầm gượng gảy”.

Mọi cố gắng đều không thoát được nỗi cô đơn của thực tại. Thời gian có trôi bao nhiêu thì khoảng cách địa lý càng xa bấy nhiêu đến tận “non Yên”, “đường lên bằng trời”, “xa vời khôn thấu”…. Sắc thái nỗi nhớ tăng tiến, rộng mở từ những suy tưởng dõi theo người chồng nơi phương xa đến sự dồn nén cảm xúc thành nỗi xót xa “thăm thẳm đường lên bằng trời” và “đau đáu nào xong”. Nó gợi nhớ ta về nàng Kiều: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu – Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Lòng người đang nặng trĩu, cảnh vật thì nhuốm sầu tuy nhiên vẫn như thôi thúc cho người ta tỉnh táo:

“Cảnh buồn người thiết tha lòng,
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun.
Sương như búa, bổ mòn gốc liễu,
Tuyết dường cưa, xẻ héo cành ngô”.

Hình ảnh ghen tị “sương như búa”, “tuyết dường cưa” là sự cực tả và bột phát thành những ám ảnh dị thường. Trong thực chất, chính tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ đã tạo nên những cãi vả tình cảm sai biệt nhau và thổi vào cả không gian để nó như nhuốm màu đớn đau, để trong cảnh có tình, trong tình có cảnh, để sự tin tưởng hòa với thất vọng, để hy vọng mong manh như không thể nguôi khuây.

Bước vào đoạn cuối, người chinh phụ vươn tới khung cảnh thoáng rộng hơn mà cảnh vật như chết lặng, như chìm sâu trong giá cả băng của lòng người. toàn bộ chỉ đơn thuần là cảnh vật và bởi vậy hình ảnh người chinh phụ như khuất lấp đi:

“Hoa dãi nguyệt, nguyệt in một tấm,
Nguyệt lồng hoa, hoa thắm từng bông.
Nguyệt hoa, hoa nguyệt trùng trùng,
Trước hoa dưới nguyệt trong lòng xiết đâu!”

Đến đây, tâm trạng được đẩy lên tận cùng. Thiên nhiên đang căng tràn sao chúng ta ủ rũ, nhựa sống đang trỗi dậy sao hồn người héo úa. Dường như nó cũng là hồi chuông, là sự đánh thức cho nhận thức trỗi dậy để giành, giữ và bảo vệ cho hạnh phúc giữa cõi ta đang sống.

Trên khía cạnh nghệ thuật, thể thơ song thất lục bát tạo nên nhịp thơ buồn thương man mác, nối dài không dứt. Quan sát kỹ có khả năng thấy từng bốn câu thơ đi liền nhau hình thành một tiết đoạn, trong đó hai câu thất ngôn đóng nhiệm vụ khơi dẫn ý tứ như những ngọn sóng cảm xúc đang trào dâng hô ứng, đăng đối, tạo ấn tượng và sự nhấn mạnh. hiện trạng tình cảm của người chinh phụ một mặt có ý nghĩa tố cáo những cuộc tranh đấu tranh phi nghĩa đã đẩy bao nhiêu người trai ra trận và hệ quả là những nỗi đau kéo dài, là chia ly đôi ngả. chúng ta sống không những để tồn tại như một hạt cát vô danh mà còn để sẻ chia và hạnh phúc và ghi dấu trong trái tim người khác. Ở đây, một lần nữa tính nhân văn của tác phẩm được đề cao và có lẽ nó sẽ tạo tiền đề cho những khai thác về thành quả nhân đạo để mở rộng chủ đề về tính nhân văn trong văn học.

Xem Thêm  Phân tích bi kịch tình yêu của thúy kiều trong đoạn trích trao duyện

“Vì ai gây dựng cho nên nỗi này” là tiếng thơ mang đầy nỗi đau, tiếng khóc thương ai oán nặng nề đầy uất ức. tuy nhiên không dừng ở đấy, tác phẩm là sự nối tiếp xuất sắc cảm hứng nhân đạo của nền văn học dân tộc và khẳng định nhiệm vụ của chúng ta trong hành trình sống và đi đến hạnh phúc.

Phân tích bài Chinh phụ ngâm hay nhất

Chinh phụ ngâm là sáng tác bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn, ra đời và khoảng cuối thế kỷ XVIII. Nó là một trong số ít tác phẩm trung đại thể hiện sự đồng cảm với số phận những người phụ nữ, quan trọng nhất là những người chinh phụ có chồng phải tham gia vào các cuộc chiến tranh phi nghĩa, phải chịu cảnh chia cắt, lẻ loi cô quạnh trong nhiều năm tháng đằng đẵng. Vốn là một đề tài ít được chú ý, khi nói về nỗi khao khát hạnh phúc, tình yêu cuộc sống lứa đôi, cùng lúc đó thể hiện sự căm ghét nghịch cảnh chiến tranh loạn lạc, thế nên ngay từ khi mới xuất hiện Chinh phụ ngâm đã rất được yêu thích bởi thông tin hiện đạicũng như chạm vào trái tim của nhiều độc giả đường thời. Trong số các bản diễn Nôm thì bản dịch của Đoàn Thị Điểm được coi là xuất sắc hơn cả dù vẫn còn nhiều nghi vấn về tác giả thực sự của bản dịch này. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ từ câu 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm thể hiện nỗi cô đơn lẻ loi của người vợ trong những ngày tháng đằng đẵng chờ chồng đánh trận, mà không hề có một tin tức, cũng chẳng rõ ngày trở về, chỉ biết mòn mỏi ngóng trông và hy vọng.

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

Trong 8 câu thơ đầu tiên tâm trạng cô đơn, lẻ loi, nỗi quạnh quẽ đầy thương cảm của người chinh phụ được thể hiện rất rõ nét thông qua nhiều chi tiết. Trước hết là bộc lộ qua những hành động có tính lặp đi lặp lại, nhàm chán, vô vị. Người chinh phụ một lòng thủy chung chờ trượng phu đang chinh chiến địa điểm xa, chẳng có ai để cùng bầu bạn, chỉ biết đơn độc “dạo hiên vắng thầm gieo từng bước”, ấy là những bước chân uyển chuyển, chậm rãi, nhiều mối sầu tư, bước chân thậm chí có lẽ không phát ra tiếng động. Những từ “thầm”, “vắng”, lại càng làm nổi bật nỗi đìu hiu cô đơn của người thiếu phụ chốn khuê phòng. Ấy rồi chán cảnh đi lại dưới mái hiên, người chinh phụ lại trở vào căn phòng trống vắng, nỗi bồn chồn, nhớ nhung đi cùng với những lần “rèm thưa rủ thác đòi phen”, tấm mành mỏng hết buông xuống lại được cuốn lên, kéo theo tầm mắt trông ngóng xa xăm của người phụ nữ giữa căn nhà lạnh lẽo.

Khi trông ra ngoài khoảng sân vắng, người chinh phụ lại gởi gắm hy vọng mong manh của minh vào loài chim thước, một loài chim chuyên báo hỷ sự, chỉ mong được nghe một tiếng chim kêu báo bậc trượng phu đã trở về. tuy vậy dạo hiên bao nhiêu lần, vén rèm bấy nhiêu lần, ánh mắt ngóng trông đến mỏi mòn mà vẫn chịu cảnh “Ngoài rèm thước chẳng mách tin”, thiếu phụ vẫn chưa thấy bóng chồng mình trở về từ chiến trận, dù một chút tin tức cũng chẳng có. không chỉ bộc lộ nỗi buồn bã, cô đơn của người chinh phụ thông qua những hành động lặp lại trong vô thức mà tác giả còn tinh tế tái hiện tiếng thở dài tội nghiệp ấy thông qua ngoại cảnh xung quanh. Khi mà vì quá cô đơn, dường như người thiếu phụ chỉ còn mỗi ngọn đèn dầu leo lắt làm bạn, nàng buồn bã trông đèn mà xót thương cho số phận của mình, tủi hổ cho cảnh chia ly, hỏi đèn rằng có biết chăng nỗi sầu lẻ bóng của mình, rồi lại như hờn như trách mà than thở “đèn có biết dường bằng chẳng biết”. Bởi lẽ cuối cùng ngọn đèn cũng chỉ là vật vô tri, không tiếng nói, không tình cảm, làm sao có thể thay thế người chồng mà chinh phụ vẫn trông ngóng đêm ngày.

Bên cạnh đó, cái hiện đại trong tác phẩm của Đặng Trần Côn còn ở chỗ người chinh phụ tự bày tỏ nỗi lòng của mình “Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”, biến mất cố ém nhẹm, giấu đi những nỗi niềm sầu khổ, mà bộc lộc một cách rõ nét nỗi “buồn rầu” đến chẳng thể cất thành lời. Ngồi cô quạnh với “hoa đèn” mà nhớ đến bóng người trượng phu chẳng biết lưu lạc chốn nào, toàn bộ tựa như một tiếng thở dài, một nỗi uất ức, tủi thân cùng cực của người phụ nữ đang độ xuân sắc nhưng cần chịu cảnh lẻ loi, bị tước đi cái quyền sống êm ấm hạnh phúc bên chồng.

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Cảnh buồn thương, hiu quạnh của người chinh phụ càng trở nên sâu sắc trong những âm thanh và cảnh sắc thê lương. Tiếng gà gáy “eo óc” là một từ láy hay và diễn tả rất đạt cái cảnh buồn vắng, quạnh quẽ trong đêm khuya. Khi mà người thiếu phụ vì cô đơn, vì nhớ thương chồng mà trằn trọc không ngủ được, nghe tiếng gà gáy từ những canh đầu, khi sương còn giăng kín, khi tiếng trống canh mới về đợt cuối. Xuyên suốt từng câu thơ và diễn biến tâm trạng của người chinh phụ, có thể thấy rằng không phải là nàng dậy sớm, mà có lẽ là trằn trọc suốt đêm không ngủ được, đến tận mờ sáng, rồi lại nghe thấy tiếng gà “eo óc” thê lương gáy sớm, khiến nỗi buồn càng thêm chồng chất trong lòng, mới chỉ nghe đã thấy nước mắt trực trào.

Rồi thêm cảnh “hòe phất phơ” che lấp suốt bốn bên căn nhà càng làm cảnh sắc thêm phần ảm đạm, cô liêu. Càng làm rõ thêm cái sự thiếu sức sống, buồn thương trong tâm hồn người thiếu phụ trẻ tuổi, vốn đang tuổi xuân sắc nhưng cần mang trong lòng nỗi sầu ải triền miên nhiều năm tháng. Thời gian cũng là một trong những cách thức diễn đạt nỗi chán chường của nhân vật trữ tình khi “khắc giờ đằng đẵng như niên”. Nỗi nhớ thương sâu sắc, trông ngóng mòn mỏi khiến người thiếu phụ tưởng một giờ dài tựa một năm, nỗi cô đơn, tủi hờn dường như đang dày vò, vặn xoắn tâm can trong từng khắc giây, thế nên một phút trôi qua cũng thật khó khăn và mang cảm tưởng đằng đẵng không dứt. Nỗi buồn “mối sầu” còn được tác giả tinh tế diễn tả bằng một lượng từ “dằng dặc” chỉ sự dài vô tận không dứt, kéo qua sông qua biển, đến tận nơi chiến trường xa xăm, nơi có người chồng đang miệt mài chinh chiến.

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Trong khốn cảnh buồn bã, lẻ loi đến cùng cực ấy người chinh phụ đã cố vực dậy tinh thần, tự tìm cho mình những thú vui khuây khỏa nhằm vơi đi phần nào nỗi nhớ thương, sự trống trải trong lòng. Nào là đốt hương, tô son điểm phấn, ngắm dung nhan, gảy đàn, tuy vậy tất thảy các thú vui tao nhã ấy đều trở nên thật chua xót, khi dường như càng làm nó lại càng xoáy sâu vào nỗi chật vật của người chinh phụ. Cố “gượng” đốt hương, mà nghe mùi thơm hồn càng “mê mải” mệt nhọc, ngắm dung nhan tiều tụy vì thương nhớ mà nước mắt tuôn trào vì thương cho phận hồng nhan, thương cho người ở chiến trường, xót xa cho cảnh phân ly. Đến ngón đàn yêu thích, mà giờ đây khi gãy còn phải nương tay, lo lắng nhỡ chẳng may “dây uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng”, vì lo lo lắng điềm xấu, sợ cảnh sinh ly tử biệt, đớn đau. Như vậy có thể thấy mọi sự cố gắng, nỗ lực vượt ra khỏi cảnh sầu bi, chán chường của người chinh phụ đều trở nên vô nghĩa, không chỉ không vực dậy được tinh thần mà còn làm cho nỗi chật vật, xót xa càng thêm sâu sắc.

“Lòng này gửi gió đông có tiện
nghìn vàng xin gửi đến non yên
Non Yên dù chẳng tới miền
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong
Cảnh buồn người thiết tha lòng
Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Trong những dòng thơ cuối, nỗi cô đơn, lẻ loi, buồn tủi của người chinh phụ chuyển thành nỗi nhớ thương khôn nguôi dành cho người chồng ngoài chiến trận, thể hiện tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp mẫu mực của người phụ nữ trong xã hội cũ. Vì nhớ thương, vì bất lực trước cảnh chia ly, xa cách, thiếu phụ chỉ còn cách gởi nỗi nhớ, tình yêu của mình nhờ gió đông Đem lại Non Yên, kỳ vọng chút tình cảm ấy có khả năng bảo vệ cho chồng mình được an toàn, sớm ngày trở về đoàn tụ. Câu thơ cũng bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ thương không dứt của người vợ dành cho chồng mình trong cảnh chiến chinh loạn loạn lạc, là lòng khao khát tình yêu, hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt của người phụ nữ trong xã hội cũ. Gặp cảnh binh biến, không thể thỏa cuộc sống điền viên, điều ấy đã để lại trong tâm hồn họ những nỗi buồn, nỗi xót xa đến độ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, khi xung quanh chỉ có tiếng mưa, tiếng côn trùng réo rắt, sự mênh mang vô định của màn sương, nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy liệu có ai thấu tỏ.

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ là phần đặc sắc nhất trong tất cả Chinh phụ ngâm, thể hiện rõ được tinh thần nhân đạo mới mẻ mà Đặng Trần Côn muốn biểu đạt, khi mà tác giả chú tâm đến những ước vọng cá nhân của con ngườiđặc biệt là của người phụ nữ trong xã hội phong kiến, vốn là những thứ bị xem là tầm thường nhỏ mọn. đấy bao gồm khao khát được yêu thương, sống hạnh phúc bên chồng con, có cuộc sống điền viên, ngoài những điều ấy ra còn thể hiện sâu kín nỗi căm ghét các cuộc tranh đấu tranh vô nghĩa, gây nên hàng loạt các cuộc chia ly, phân tán, tước đoạt đi hạnh phúc, quyền được sống của con người, chứ không những riêng gì người phụ nữ.

Top 8 Bài văn phân tích 16 câu đầu bài thơ

Tổng kết

Với những gợi ý trên đây của Văn Học Việt Nam ta kỳ vọng các em đã có thể nắm được cách làm bài đo đạt Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ. ngoài những điều ấy ra, rất nhiều bài Văn mẫu lớp 10 hay nhất cũng đều được chúng tôi phân loại và thường xuyên cập nhật để phục vụ việc học tập cho các em. Chúc các em luôn học tốt và đạt kết quả cao!

Similar Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *