Tổng hợp 1111+ Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay đạt điểm cao 2023

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử tổng hợp 16 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết và kế hoạch tư duy. Với các bài văn mẫu Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mà Vanhoc.edu.vn giới thiệu sẽ giúp các bạn học sinh lớp 11 tự tin không phải băn khoăn quá nhiều về cách viết bài văn hay, ấn tượng nhất.

phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của một bức tranh xứ Huế cổ kính trầm mặc mà rất trang nhã, quý phái. Nó gợi cái hồn của cố đô, nhưng không thể cho rằng bài thơ chỉ tả cảnh đơn thuần. Thơ đã làm ta yêu đời hơn. Như vậy trên Nó là TOP các bài văn mẫu phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất , mời các bạn cùng theo dõi sau đây.

Sơ đồ tư duy phân tích Đây thôn Vĩ Dạ chi tiết

Dưới đây là sơ đồ tu duy phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất được cập nhật trong chuyên mục Văn Học Cấp 3 mới nhất:

Sơ đồ tư duy phân tích Đây thông Vĩ Dạ chi tiết

Dàn ý phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ

1. Mở bài

Đây Thôn Vĩ Dạ là một tác phẩm xuất sắc của Hàn Mạc Tử, nói lên bức tranh thiên nhiên tại thôn vĩ, trong số đó tâm hồn con người hòa quyện vào không gian thiên nhiên.

2. Thân bài

Bài thơ đậm đà cảm giác, hòa nhập vào bức tranh thiên nhiên nhẹ nhàng của làng quê, khiến bạn đọc cảm nhận sâu sắc.

– Tác phẩm tạo nên bức tranh thiên nhiên rộng rãi, với sự có mặt của con người.
– Thiên nhiên trong bức tranh nhẹ nhàng, hòa quyện vào không gian của làng quê Huế, với hình ảnh cây cau, vườn cúc, tươi tắn, tạo nên không gian diệu mát và tươi mới cho đất trời.
– Tác giả sẻ chia tâm trạng buồn cô đơn, khi xa quê hương, sự chia cắt làm cho cảnh vật trở nên lạnh lẽo, cảnh phố Huế nhè nhẹ, vẻ buồn cô đơn.
– Những khổ thơ thể hiện đầy cảm giác của tác giả khi nhớ về cảnh thiên nhiên quen thuộc, những cảnh tượng nhẹ nhàng, sâu lắng, mang đậm xúc cảm trong tâm hồn chúng ta. Tác giả hòa mình vào không gian thiên nhiên khi trở về Huế, làm cho cảnh vật ngập tràn màu sắc buồn thương, đẩy trái tim người đọc đến xót xa, cảnh vật ấy biết buồn thương, đau khổ, tạo nên không gian nhẹ nhàng, buồn thiu, lan tỏa như có sự lay chuyển.
– Tác giả đắm chìm vào mơ ước trong không gian đấy, xa xăm với hình ảnh mờ ảo của thiên nhiên, nhẹ nhàng và sâu lắng trong tâm hồn chúng ta.
– Tình cảm của chúng ta dần tàn phai, trở nên vô vọng trước khung cảnh và thời gian, thế nhưng vẫn nhẹ nhàng, tạo nên màu sắc, sự tươi mới trước những không gian của không gian thiên nhiên.
– Bài thơ mang lại cảm giác đặc biệt của chúng ta trước không gian thiên nhiên nơi này, nhẹ nhàng, tinh tế và chứa đựng nhiều cảm giác sâu sắc trước cuộc sống, thiên nhiên và chúng ta.
– Bài thơ đã gởi tới bạn đọc những tình cảm chân tình, và hình ảnh thiên nhiên nhẹ nhàng, gợi tả lên nhiều cảm giác sâu sắc trong lòng người đọc.

3. Kết Luận

Bài thơ đã mang lại cho người đọc một môi trường thiên nhiên rộng lớn, mênh mông, địa điểm con người có thể hòa mình vào không gian của thiên nhiên và đất trời.

Tổng hợp mẫu Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dã

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ – Mẫu 1

Hàn Mặc Tử là hồn thơ đau thương tuy nhiên là một nhà thơ có sức sáng tạo thật tự tin nhất trong phong trào thơ mới. Ông để lại cho văn học đất nước ta nhiều tác phẩm có giá trị như: “Gái quê”, “Thơ điên”, “Chơi giữa mùa trăng”… Đặc sắc và gây xúc động quan trọng là bài “Đây thôn Vĩ Dạ” được trích trong tập “Thơ điên”. Bài thơ là bức tranh tuyệt đẹp về miền quê đất nước và là tiếng lòng của một chúng ta tha thiết yêu đời, yêu người:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?

….

Ai biết tình ai có đậm đà”

“Đây thôn Vĩ Dạ” rút trong tập “Thơ điên” xuất bản năm 1940. Theo thi sĩ Quách Tấn – bạn thơ của Hàn Mặc Tử thì bài thơ được gợi cảm hứng từ tấm bưu ảnh do cô gái Huế có tên Hoàng Cúc gửi tặng. đấy là tấm bưu thiếp vẽ cảnh Huế với dòng sông, con đò, bến trăng hay một buổi bình minh. Khi ấy Hàn Mặc Tử đang điều trị bệnh phong tại Quy Nhơn. Nhận được tấm bưu ảnh cùng những lời thăm hỏi của cô gái xứ Huế, ông đã xúc động viết bài thơ này.

TOP 9 Mẫu phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 2022 siêu hay đạt điểm cao -  Bảng Xếp Hạng

Bài thơ mở đầu bằng một hoài niệm mênh mang về cảnh và người thôn Vĩ. Bức tranh thơ đẹp còn tình người thì tha thiết nhớ mong:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Có lẽ, với bất cứ ai khi đọc bài thơ này, cũng đều bị cuốn hút ngay từ câu thơ đầu với những băn khoăn, vừa như hờn dỗi, như trách yêu. Câu hỏi ấy chính là sự phân thân của nhà thơ, sự hóa thân của nhà thơ vào cô gái Huế. Chỉ một câu thôi, câu hỏi nhưng lại chan chứa yêu thương. vì sao lâu rồi anh không về chơi thôn Vĩ bên bờ sông Hương mộng mơ, có người con gái anh thương? Nhà thơ dùng từ “chơi” mà không sử dụng từ “thăm”.

nếu sử dụng từ “thăm” thì cấu trúc câu thơ không chỉnh sửa nhưng nó trở nên khách sáo, từ “chơi” gợi nên sự thân mật, gần gũi thắm thiết, thân tình. Trong câu thơ, nhà thơ đã hé lộ cho người đọc tình cảm của mình đối với cô gái Huế, coi cô gái Huế là một người thân thương hay chính cô gái ấy xem nhà thơ như bạn tâm giao, tri kỷ.

Mặt khác, sắc thái tu từ trong câu thơ đầu còn là lời tự hỏi, tự trách mình: sao cảnh Huế đẹp thế mà mình không trở về ? đấy là một câu hỏi đớn đau, khắc khoải vì trở về Huế là điều không thể bởi nhà thơ đang ở giai đoạn cuối của cơn bạo bệnh. nhưng cũng chính câu hỏi tu từ ấy là nguyên cớ để khơi dậy khao khát, hoài niệm. Vì không thể trở về nên nhà thơ đã làm một cuộc hành hương trong tâm tưởng. Ba câu thơ kế đến là hình ảnh thôn Vĩ hiện lên qua cái nhìn tha thiết:

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Cảnh sắc thôn Vĩ được chiêm ngưỡng từ xa đến gần. Từ xa nhà thơ đã nhìn thấy “nắng hàng cau nắng mới lên”. Câu thơ với điệp từ “nắng” và cách ngắt nhịp 4/3 gợi ra trong mắt người coi một không gian tràn đầy ánh sáng. Cảnh hiện lên rõ nét sống độngđầu tiên là vẻ đẹp của “nắng hàng cau”. Cau là loài cây cao nên đón ánh nắng trước tiên của ngày mới.

không gian thôn Vĩ vì thế như được đẩy lên cao, thoáng khí, khoáng đạt. đặc biệt sau một đêm tắm gội dưới làn sương, những tàu cau trở nên xanh biếc hơn dưới ánh mặt trời. Cụm từ “nắng mới lên” cho ta thấy đó là ánh nắng của buổi ban mai thật rực rỡ, trong sáng. Câu thơ vẽ nên một hàng cau đầy sức sống đang vươn lên mãnh liệt đón ánh nắng đầu tiên của buổi sớm.

Ánh nắng hiện đại, tinh khôi như làm sáng bừng lên khung cảnh khoáng đạt, rộng lớn. Nhớ đến thôn Vĩ, nhà thơ nhớ ngay đến hình ảnh hàng cau đầu tiên. Bởi lẽ hàng cau là hình ảnh quá đỗi thân thuộc với mỗi cá nhân dân thôn Vĩ. Hình ảnh tưởng chừng như đơn sơ, bình dị ấy lại có sức gợi hình, gợi cảm lớn và có hàm ý sâu sắc trong trái tim nhà thơ.

đề cập đến cau còn là nhắc đến loại cây rất thân thuộc với làng quê đất nước tanơi có phong tục ăn trầu từ ngàn đời nay. Nguyễn Bính – một nhà thơ cảnh quê, hồn quê cũng đã đặt mối tình bình dị của đôi trai gái thôn quê trên cái nền phong cảnh có hình ảnh thân cau thân thuộc ấy:

“Nhà anh có một hàng cau

Nhà em có một giàn trầu”

Trong bài thơ “Hoa Lư” nhà thơ Trần Đăng Khoa đã viết:

“Đường cỏ lơ mơ nắng

Mái tranh chìm chơi vơi

Vài tán cau mộc mạc

Thả hồn quê lên trời”

Ở khoảng cách gần, thôn Vĩ hiện lên bởi vẻ đẹp của khu vườn tràn ngập nhựa sống “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”. “Một câu thơ hay là một câu thơ giàu sức gợi” (Lưu Trọng Lư). Quả đúng như vậy, câu thơ đã gợi ra một khoảng không gian xanh của thiên nhiên Vĩ Dạ, cái màu xanh linh hoạt, mỡ màng của hàng cây khiến cho người coi cảm nhận được một sức sống tràn trề, mơn mởn.

Tác giả dùng màu xanh như ngọc để diễn đạt sức sống, vẻ đẹp của thiên nhiên thôn Vĩ, một sắc màu cao quý, lấp lánh và trong trẻo. nếu như không có một tình yêu nồng nàn đối với đất và người Vĩ Dạ, có lẽ thi sĩ họ Hàn không thể gieo được những vần thơ trong trẻo đến như vậy.

“Vườn ai”? Không xách định tuy nhiên ngầm hiểu đấy là khu vườn cô gái Huế. “Mướt” là một tính từ khác với “mượt” bởi “mượt” chỉ gợi lên mịn màng mà “mướt” thì gợi sự sáng lên, tươi mới của cảnh vật. Xuân Diệu viết:

“Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền”

Thủ pháp nghệ thuật ghen tị “xanh như ngọc”. Xanh ngọc tức là xanh trong, màu xanh đi liền với ánh sáng nhưng không chói chang mà lại rất dịu, người coi có thể hình dung vẻ đẹp của viên ngọc đính giữa bầu trời xứ Huế. Câu thơ với “vườn ai mướt quá” như một lời trầm trồ, thán phục, ngợi ca cũng như lời thầm cám ơn chủ nhân của khu vườn đã dày công chăm bẵm cho khu vườn thêm đẹp.

Và cảnh vật thôn Vĩ càng nét hơn trước bởi sự xảy ra hình bóng con người “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. Vĩ Dạ nổi tiếng với màu xanh của trúc – một loài cây họ tre được trồng trước ngõ. Trong tâm tưởng thi nhân bất chợt hiện về khuôn mặt chữ điền lấp ló sau hàng trúc.

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử Dàn ý & 18  bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ

Lá trúc thì mảnh mai, mặt chữ điền gợi sự vuông vắn, phúc hậu. tất cả tạo nên vẻ đẹp hài hòa giữa chúng ta và cảnh vật cùng lúc đó qua đấy người coi nhìn thấy không những vẻ đẹp phúc hậu của người con gái Huế mà còn là vẻ đẹp của sự kín đáo, duyên dáng, e ấp rất thiếu nữ, rất Huế. Cũng viết về thôn Vĩ, nhà thơ Bích Khê viết:

“Vĩ Dạ thôn, Vĩ Dạ thôn

Biếc che cần trúc không buồn mà say”

Viết về trúc, Hàn Mặc Tử không những là “Lá trúc che ngang mặt chữ điền” mà còn là:

“Thầm thỉ hỡi ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Thiên nhiên và con người có sự gắn bó, hòa quyện lôi cuốn tạo xúc động mạnh trong lòng nhà thơ. Nhà thơ đã ghi lại linh hồn của tạo vật với những gì đặc sắc, lắng đọng trong ký ức hoài niệm, trong nỗi niềm nhớ thương. bằng việc mô tả vẻ đẹp thôn Vĩ, Hàn Mặc Tử đã thể hiện tình cảm gắn bó sâu nặng thiết tha đằm thắm so với cảnh và người xứ Huế. tất cả ẩn chứa một sự nuối tiếc, một niềm khát khao trở về thôn Vĩ yêu thương.

nếu ở khổ thơ thứ nhất nhà thơ nhìn cảnh vật bằng niềm lạc quan yêu đời thì sang khổ thứ 2, tâm trạng thi nhân dần có sự đổi khác, đó chính là lúc tự ti chia lìa hiện ra rõ nét dưới từng câu chữ:

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay

Sông Hương, núi Ngự hiện lên với vẻ đẹp đặc trưng của xứ Huế, dòng sông Hương luôn chảy lững lờ, chậm rãi – đó là “điệu Slow tình cảm dành riêng cho Huế” (Hoàng Phủ Ngọc Tường). Hai bên bờ sông là những vườn bắp với những bông hoa nhẹ nhàng lay động. vậy mà trong đôi mắt Hàn Mặc Tử thì cảnh vật hiện lên chia lìa “Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay. Phép nhân hoá làm dòng sông như chở nặng nỗi sầu thương chất ngất của nhà thơ.

đấy là lúc tâm cảnh đã nhuốm vào ngoại cảnh. Nỗi buồn của thi nhân dường như phủ khắp cảnh vật: gió, mây, dòng sông, hoa bắp… Gió và mây là hai sự vật luôn sánh đôi với nhau như thuyền và nước tuy nhiên trong thơ Hàn Mặc Tử thì gió mây chia lìa. Gió đóng khung trong gió, mây đóng khung trong mây “Gió theo lối gió, mây đường mây”. Nhìn xuống dòng sông, thi nhân thấy dòng sông trở nên “buồn thiu”, còn hoa bắp chỉ khẽ “lay” – một cử động rất nhỏ tạo cho bức tranh nỗi buồn hiu hắt vắng lặng. Chữ “lay” ấy như từ trong ca dao bay về đậu vào thơ Hàn Mặc Tử :

Ai về Giồng Dứa qua truông

Gió lay bông sậy bỏ buồn cho em

khung cảnh sông nước xứ Huế nhuốm màu sắc hư ảo. Nỗi buồn phủ khắp cảnh vật từ gió mây đến dòng nước và hoa bắp bên sông. Buồn đến não ruột, buồn đến mềm lòng. Gió và mây vốn gắn kết cũng đã có sự chia lìa đôi ngả, dòng sông mang đầy tâm trạng chảy về niềm tâm tưởng. Đằng sau những cảnh vật ấy là tâm trạng của một con người mang nặng một nỗi buồn xa cách, một mối tình vô vọng, đơn phương. Ths Phan Danh Hiếu

Hai câu thơ tiếp theo, thi nhân đưa người coi vào cõi mộng. Vẫn là dòng sông Hương, là Huế mộng mơ tuy nhiên biến mất nắng, còn xanh của Vĩ Dạ mà trước mắt người đọc là khung cảnh ngập đầy ánh trăng, con thuyền biến thành thuyền trăng, dòng sông thì sông trăng, bến thì thành bến trăng.

Từ xưa đến nay, có thuyền trăng, bến trăng nhưng nay lại có sáng tạo sông trăng ấn tượng của hồn thơ Hàn Mặc Tử. Đọc câu thơ, người đọc có cảm giác như đang trôi vào cõi mộng, dường như đang sống trong khắc khoải hoài mong của thi nhân. Đây không phải lần đầu Hàn Mặc Tử viết về trăng mà trong thế giới thơ ca của Hàn Mặc Tử, trăng là một người bạn, một người tình bắt buộc phải làm trong đời sống tâm hồn thi nhân:

“Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu

Đợi gió đông về để lả lơi”

“Không gian đắm đuối toàn trăng cả

Anh cũng trăng mà em cũng trăng”

Hoặc:

“Gió lùa ánh sáng vào trong bãi

Trăng ngập dòng sông chảy lãng lai”

“Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Trăng nằm im trên cành liễu đợi chờ

Ai mua trăng tôi bán trăng cho

Chẳng bán tình duyên ước hẹn thề”

Thơ Hàn Mặc Tử ít nhiều nhuộm sắc màu trường phái tượng trưng siêu thực của phương Tây vì bởi vậy có nhiều hình ảnh khó kiểm soát, ví như câu viết về trăng trong tác phẩm này. “Thuyền ai” phải chăng đó là con thuyền của cô gái Huế, con thuyền mà nhà thơ đang mong ước chở trăng và phải chăng trăng chính là tình yêu mà nỗi chờ mong của Hàn Mặc Tử. “Tối nay” là tối nào, phải chăng Nó là giới hạn cuối cùng của cuộc đời nhà thơ – khi mà cuộc sống của nhà thơ là cuộc chạy đua với thời gian.

“Tối nay” phải chăng chính là ranh giới của sự sống và cái chết. Có phải vì thế mà câu hỏi tu từ vang lên khẩn thiết: “Có chở trăng về kịp tối nay?”. Liệu rồi con thuyền ấy có cập bến bờ trước lúc Hàn Mặc Tử trở về với cõi vĩnh hằng hay không? Từ “kịp” vì thế mà chất chứa tâm trạng hoài mong và cả tin yêu lẫn bi kịch và hoài nghi của chúng ta. Ths Phan Danh Hiếu

“Có chở trăng về kịp tối nay?” là câu hỏi ẩn chứa một sự day dứt, mong ước và lo lo lắng. Một niềm kỳ vọng đầy khắc khoải và phấp phỏng trong tâm trạng thi nhân. Hàn Mặc Tử cảm nhận thời gian đang trôi chảy trong lúc mình bất lực. Chính Vì vậy mà người coi càng đồng cảm hơn cái giục giã trong lời mời gọi ở câu thơ đầu, càng thấu hiểu hơn với khát vọng sống mãnh liệt của nhà thơ khi cái chết đang kề cận.

mặc dù sống trong mơ nhưng thi nhân không mất hết kỳ vọng mà vẫn mơ ước một cách riết róng:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?”

Nhịp thơ 4/3 và điệp ngữ “Khách đường xa” được lặp lại hai lần thể hiện tâm trạng khắc khoải chờ đợi và niềm khát khao đến mạnh mẽ. Từ “mơ” nằm đầu câu đã thể hiện rõ tâm trạng mong chờ ấy của thi nhân. Thầy Phan Danh Hiếu. “Mơ” chứ không phải là “mong”, vì không mong được nên mơ, vì sống trong mơ có lẽ sẽ bớt đi nỗi cô đơn thì phải. “Khách đường xa” có lẽ chính là cô gái Huế, và khách đường xa xuất hiện trong màu áo trắng.

TOP 9 Mẫu phân tích bài thơ Đây Thôn Vĩ Dạ 2022 siêu hay đạt điểm cao -  Bảng Xếp Hạng

Màu trắng tượng trưng cho sắc đẹp trong trắng tinh khôi của cô gái Huế – quan trọng là Hoàng Cúc từng là nữ sinh của trường Đồng Khánh. Trong sự đa nghĩa của câu thơ, màu trắng còn là sắc màu chỉ sự trong trắng của mối tình đơn phương; màu trắng ở đây vượt lên trên mức thông thường nên đã hóa thành màu của ảo ảnh và chính vì nhìn vào ảo ảnh nên hình bóng của giai nhân cứ mờ nhoè, hư ảo.

“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. “Ở đây” – nơi nhà thơ dưỡng bệnh – địa điểm mà Hàn Mặc Tử luôn xem là lãnh cung giam lỏng mình. “Ở đây” và “ngoài kia” có xa xôi mấy đâu thế mà một lần về thăm thôi cũng là điều không tưởng. Bởi thế câu thơ như vừa thực vừa mơ, còn kỷ niệm cứ chìm dần vào Huế – nơi đấy giai nhân trong mộng đang lẫn trong màu khói sương của kỷ niệm. Hình bóng giai nhân ấy đã bao năm làm điên đảo mộng thi ca:

“Trời hỡi làm sao cho khỏi đói

Gió trăng đã có sẵn làm thế nào ăn

làm sao giết được người trong mộng

Để trả thù duyên kiếp lỡ làng”

Câu hỏi cuối khổ thơ vang lên đầy hoài nghi, đầy khắc khoải về một mối tình vô vọng: “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Nó là sự hoài nghi của người yêu đời tha thiết. Nhà thơ trong hiện trạng bị dày vò vì khát khao tình yêu, vì trái tim đang rơi vào trống trải. Ths Phan Danh Hiếu. Câu hỏi như một tiếng kêu đớn đau, mang theo nỗi buồn vô vọng và những uẩn khúc của Hàn Mặc Tử – một tâm hồn đau thương chới với, bất lực trong tự ti chia lìa tuy nhiên cũng hết lòng thiết tha với cuộc đời.

Bài thơ sử dụng một số biện pháp tu từ như: điệp từ, nhân hóa, ghen tị, câu hỏi tu từ… Bằng thủ pháp nghệ thuật liên tưởng cùng với những câu hỏi tu từ xuyên suốt bài thơ, tác giả Hàn Mặc Tử đã phác họa ra trước mắt ta một khung cảnh nên thơ, đầy sức sống và ẩn trong đấy là nỗi lòng của chính nhà thơ: nỗi đau đớn trước sự cô đơn, buồn chán trần thế, đau cho số phận ngắn ngủi của mình. Thầy Phan Danh Hiếu.

Dầu vậy tuy nhiên ông vẫn sống hết mình trong sự đớn đau của tinh thần và thể xác. Điều đó chứng tỏ ông không buông thả mình trong dòng sông số phận mà luôn cố gắng vượt lên nó để khi xa lìa cõi đời sẽ không còn gì phải hối tiếc. Trải qua bao năm tháng, cái tình của Hàn Mặc Tử vẫn còn tươi nguyên, nóng hổi và day dứt trong lòng người coi. “Tình yêu trong ước mơ của chúng ta đau đớn ấy có sức bay bổng kì lạ” tuy nhiên nó cũng giản dị, trong sáng và tươi đẹp như làng quê Vĩ Dạ.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là một thi phẩm nói lên mối tình đơn phương tuyệt vọng nhưng cũng rất đỗi thiết tha yêu đời của thi nhân Hàn Mặc Tử. đề cập đến Huế, ta không quên bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, và nhắc đến Hàn Mặc Tử ta càng không thể quên vẻ đẹp của Huế, quan trọng nhất là không thể quên vẻ đẹp thôn Vĩ trong thi phẩm để đời của ông. Huế đẹp, Huế thơ, xin được mượn bốn câu thơ của Thu Bồn thay cho lời kết gửi đến tình yêu xứ Huế, với thi nhân Hàn Mặc Tử:

“Xin chào Huế một lần anh đến

Để nghìn lần anh nhớ trong mơ

Em rất thực nắng thì mờ ảo

Xin đừng lầm em với Cố Đô”

-Thầy Phan Danh Hiếu-

Bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mẫu 2

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ được ra đời từ một nguyên cớ rất đặc biệt. Khi Hàn Mặc Tử lâm bệnh nặng chờ đợi những giây phút đến với tử thần ở trại phong Quy Hòa, Quy Nhơn, thì nhà thơ đã bất ngờ nhận được một tấm bưu ảnh do người bạn gái là Hoàng Thị Kim Cúc gửi tặng từ thôn Vĩ Dạ. Tấm bưu ảnh ấy có phong cảnh sông nước đêm trăng, có thuyền và bến. Phía sau kèm theo mấy lời thăm hỏi để an ủi nhà thơ lúc này đang mang căn bệnh hiểm nghèo.

Đối với người bình thường tấm bưu ảnh chỉ là một quan hệ xã giao thăm hỏi nhau nhưng với Hàn Mặc Tử thì có ý nghĩa rất riêng. Nó đã cho nhà thơ được yêu người trong mộng với một tình yêu sâu kín nỗi lòng. Vì thế mà, kiệt tác “Đây thôn Vĩ Dạ” đã ra đời. Khổ thứ nhất mở đầu là câu hỏi của một người con gái.

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?” Thực ra đây là một lời trách yêu, một sự dỗi hờn thể hiện nỗi trông ngóng da diết của cô gái ở thôn Vĩ. Nhưng trong thực thế thì không có người con gái nào đang trực tiếp đối với Hàn Mặc Tử cả. Lời nói dịu dàng và chứa đầy yêu thương ấy chính là những dòng chữ trong tấm bưu ảnh kia, nó xôn xao, sống dậy, nó trở thành giai điệu và phát ra tiếng nói.

Ở câu thơ thứ hai con người hết sức bất ngờ vì lời mới vừa cất lên thì ngay lập tức Hàn Mặc Tử đã có mặt ngay ở không gian thôn Vĩ Dạ. cụ thể đây là một cuộc hành trình trong tâm thức.

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

Câu thơ này xuất hiện hai từ “nắng”. Một cái nắng được phát hiện được miêu tả “nhìn nắng hàng cau” và một cái năng tinh khôi mới mẻ, nó khiến nhà thơ phải xuýt xoa reo lên như trẻ con “nắng mới lên”. Đây không phải là thứ nắng của mặt trời mà ngày nào chúng ta cũng thấy. Đây là một thứ nắng rất mới vì nó xuất hiện trong buổi bình minh. Nó thắp nên trên những hàng cau.

Từ trước đến nay người ta đều cho rằng điểm nhìn của Hàn Mặc Tử là từ xa đến gần. Người khách du lịch thấy được nắng hàng cau và càng đến gần khu vườn càng thấy màu xanh ngọc của là cây. Thực ra ông trở về bằng tâm thức thì không nhất thiết cần có một cuộc dạo chơi như vậy.

Đôi mắt của Hàn Mặc Tử đang ở trên cao, trên khu vườn thôn Vĩ. Nhà thơ đang xé toạt vòm trời đen để nhìn thấy bình minh nắng mới diệu kì thắp lên từ thôn Vĩ Dạ. Không gian nơi có người mình yêu là một khu vườn địa đàng, là nơi có nhiều phép màu cổ tích. Về với thôn Vĩ là trút được những nỗi phiền muộn đớn đau. Vì thế nên tâm thức của Hàn Mặc Tử đã đáp xuống khu vườn thôn vĩ.

“Vườn ai mướt qua xanh như ngọc”

Câu thơ có đến hai lần xuýt xoa, kinh ngạc. Đã “vườn ai mướt quá” lại còn phát hiện ra cái “mướt quá” ấy là “xanh như ngọc”. Tất cả đều non tơ, tất cả đều xanh tươi, mọi chiếc lá ở đây đều xanh như ngọc. Nó không chỉ cho ta cảm nhận bằng thị giác mà còn cho ta cảm nhận tiếng va chạm của những chiếc lá ngọc.

“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Câu thơ cuối khổ một là câu thơ có nhiều cách hiểu không giống nhau. Có người cho rằng “mặt chữ điền” chính là khuôn mặt của người con gái đã mời Hàn Mặc Tử về chơi thôn Vĩ. Bời vì “vườn ai” chính là vườn của em, nhìn thấy khuôn mặt của em trong khu vườn ấy thì rất hợp lí.

Nhưng nhà thơ Chế Lan Viên – bạn của Hàn Mặc Tử đã rất bất mãn với cách hiểu này, ông cho rằng mặt chữ điền có thể không xấu nhưng nhất định đó là gương mặt không theo chuẩn mực cái đẹp của người Việt Nam khi nhận xét phụ nữ. Cũng có ý kiến lại nói là “mặt chữ điền” là viên gạch có bốn ô vuông thường được xây trên bức bình phong của những ngôi nhà ở thôn Vĩ.

Thực ra nếu đọc thơ Hàn Mặc Tử chúng ta sẽ bắt gặp nhiều hình tượng, thế giới kì lạ. Việc nhà thơ gặp mình trong quá khứ cũng như trong tương lai là rất phổ biến. Vì thế dù thật khó tin nhưng ở đây Hàn Mặc Tử đã gặp lại chính mình với gương mặt chữ điền thời còn là chàng trai tài hoa nổi danh trên đất Huế.

Xem Thêm  Bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca

Nhà thơ muốn yêu một tình yêu trong trắng, thanh thản, đắm say thì phải trở lại là con người của quá khứ, phải là một nhà thơ đa tình phong lưu thời còn ở Huế. Nói đúng ra là nhà thơ muốn quên mình trong hiện tại với căn bệnh hiểm nghèo để được yêu. Hình tượng “lá trúc che ngang” càng cung cấp cho gương mặt chữ điền ấy những nét ngang tàng, phóng khoáng mạnh mẽ của người đàn ông. Lá trúc trong quan niệm xưa chính là biểu hiện cho người quân tử.

Nếu khổ thơ thứ nhất cho chúng ta ấn tượng về buổi sáng thì khổ thơ thứ hai cho con người ấn tượng về buổi chiều ở một không gian trống rỗng ngoài thôn Vĩ Dạ và sau đấy là buổi tối với cảnh sông nước con thuyền tràn ngập ánh trăng. Cả bốn câu thơ phần nào gợi cho chúng tôi về phong cảnh xứ Huế nhưng thực ra mọi hình tượng đều tồn tại trong những quan hệ nghịch lí, trái tự nhiên.

“Gió theo lối gió, mây đường mây”

Câu thơ thứ hai không chỉ là nghịch lí mà còn là một sự trớ trêu. Lẽ tự nhiên hoa bắp lay động thì mặt nước phải gợn sóng. Thế nhưng ở đây chỉ có hoa bắp lay động cùng gió để dòng nước một mình buồn thiu. Chẳng thà xa mặt cách lòng như gió với mây còn hơn đứng bên cạnh nhau mà cho nhau nhiều đắng cay, tủi cực.

Nếu khổ thơ đầu ta cảm nhận một tình yêu sắp nảy nở tuyệt vời nhưng đến khổ thơ sau thì ta lại gặp một cuộc tình tan nát chia phôi. Thông qua cách nói nóng gió, Hàn Mặc Tử đã chua chat phủ định người mời mình về thăm thôn Vĩ. đấy là một kể phụ tình bỏ rơi những lời hẹn ước, làm tan nát trái tim của kẻ yêu thương tin tưởng dại khờ.

Người yêu trong mộng của Hàn Mặc Tử khi thì mời đón dành sẵn một thế giới yêu thương chờ đợi, khi thì trở thành một kẻ phụ tình phũ phàng rất lạnh lùng. Và thật bất ngờ con người ấy bỗng dưng hiện ra thật nhân từ và độ lượng.

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đấy

Có chở trăng về kịp tối nay?”

Hình tượng trăng trong thơ Hàn Mặc Tử xuất hiện rất nhiều. Trăng muôn đời là biểu tượng của hạnh phúc, đặc biệt là hạnh phúc lứa đôi. Quá khao khát hạnh phúc nên hai câu thơ của Hàn Mặc Tử tràn ngập ánh trăng: bến trăng, sông trăng, thuyền trăng, chở trăng.

Nhân vật “ai” ở đây chỉ có thể là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ. Người ấy đang cắm thuyền ở bến sông để chờ đợi lấy được nhiều ánh trăng hạnh phúc và sẽ chở trăng về cho nhà thơ tối nay. đấy là sự yêu thương cao cả, là sự thấu hiểu đến tường tận những khao khát của Hàn Mặc Tử.

Thế nhưng chữ “kịp” ở đây lửng lờ một câu hỏi: liệu có chở kịp trăng về trong tối hôm nay? Có thể kip và cũng có thể không còn kịp nữa… Tối nay là một khái niệm thời gian ngắn ngủi. Hàn Mặc Tử biết rằng sự sống của mình chỉ còn lại những giây phúc ngắn ngủi ở trần thế, sẽ có người đem hạnh phúc đến cho nhà thơ nhưng nếu đến trễ thì hạnh phúc ấy thật vô nghĩa.

“Mơ khách đường xa, khách đường xa” Mở đầu khổ thơ thứ ba là một câu thơ thật đặc biệt. Khách vốn đã xa lạ mà nhà thơ còn lặp đến hai lần sự xa lạ ấy “khách đường xa, khách đường xa”. Thế mà, lại có một giấc mơ về người khách không quen ấy. Thực ra đây là người mời Hàn Mặc Tử về thăm thôn Vĩ nhưng nhà thơ hiểu rằng người ấy ngoài tầm tay với của mình. Con người đấy càng lúc càng trở nên xa lạ và càng không níu kéo được nên Hàn lại càng gửi gắm vào giấc mơ. Có thể thấy tâm sự này qua những vần thơ khác của Hàn:

“Người đã đi rồi không níu lại

Tình yêu chưa đã, mến chưa bưa

Người đi một nửa hồn tôi mất

Một nửa hồn tôi đến dại khờ”.

Bởi muốn tìm một tình yêu trong mộng để được sống có ý nghĩa trong những giây phút cuối đời nên tâm trạng của Hàn Mặc Tử luôn có những đối cực. Ban đầu là hi vọng tràn trề rồi lại trách móc coi người mình yêu là kẻ phụ tình; liền sau đó nhà thơ thấy người con gái mời mình về thăm thôn Vĩ thật chung tình, sẵn sàng cắm thuyền đợi chờ mong ánh trăng hạnh phúc đến cho mình.

Tiếp theo, Hàn Mặc Tử tuyệt vọng nhìn người yêu mình như “khách đường xa”. Nhưng cũng liền sau đấy, nhà thơ thấy người ấy quay trở lại với mình, cô gái ấy hoàn toàn trong trắng và thánh thiện. Đại từ “em” thật giản dị, gần gũi biết bao: “Áo em trắng quá nhìn không ra”.

Đây Thôn Vĩ Dạ - Phân Tích đây Thôn Vĩ Dạ - Phân Tích Bài Thơ đây Thôn Vĩ Dạ

Câu thơ vừa sáng bừng lên niềm hi vọng thì nó đã cho Hàn Mặc Tử cảm nhận ngay sự tuyệt vọng. Đáng lẽ “áo em trắng quá” thì anh phải nhìn rất rõ em. Thế nhưng áo em càng trắng bao nhiêu thì anh lại càng không nhìn ra bấy nhiêu. Thực ra anh không dám nhìn bởi vì em quá trong trắng, thanh cao…

Mặc cảm khi yêu thương là một quy luật. Nhưng tôn thờ để rồi mặc cảm như Hàn Mặc Tử là do có nguyên nhân từ cuộc đời riêng. Nhà thơ hiểu hoàn cảnh thực tại của mình, vì thế mà dù nhân vật “em” trở lại với mình, nhà thơ cũng không dám yêu. Hàn Mặc Tử phải tự khước từ với tình yêu của mình. Câu thơ thứ ba nhuốm màu sắc bi quan của một triết lí nhân sinh: “Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”. Nguyễn Gia Thiều đã từng viết:

“Con quay búng sẵn lên trời

Mờ mờ nhân ảnh như người đi đêm”

Đời người là một con quay đã búng sẵn, chính bản thân ta cũng không thể điều khiển được số phận của ta. Trong mối quan hệ với người khác thì ta chỉ nắm bắt được “nhân ảnh” chứ không thể là chính người đấy. Hàn Mặc Tử cũng vậy, nhà thơ hiểu rằng mình không chủ động được với chính mình, mình không thể nhìn thấy rõ hình ảnh của người yêu.

Thi sĩ hiểu rằng sương khói của cuộc đời đang xóa nhòa “nhân ảnh” của nhân vật “em”… đó là một nhận thức thật chua chat, ngậm ngùi, nó để lại sự trống vắng như một trong hoang mạc trong tâm hồn Hàn Mặc Tử. Đây chính là nguyên nhân khiến cho thi sĩ thốt ra một câu hỏi bơ vơ tuyệt vọng không có chỗ nào để bám víu: “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Hai đại từ “ai” ở câu thơ này tạo nên nhiều cách hiểu: không biết em có hiểu được chính tình yêu của em đậm đà hay không? Không biết bản thân anh có biết được tình yêu của chính mình đậm đà không? Liệu em có biết tình anh đậm đà không? Liệu anh có biết tình em có đậm đà không?

Một câu hỏi trong thơ nhưng ẩn chứa biết bao nhiêu câu hỏi đằng sau nó, càng hỏi càng thấy “mờ nhân ảnh”, càng tuyệt vọng. Càng tha thiết một tình yêu đậm đà Hàn Mặc Tử càng thấy sự đổ vỡ tuyệt vọng với tình yêu. Vì thế mà cảm hứng chủ đạo của “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là cảm hứng đau xót về một tình yêu tuyệt vọng.

Mọi sự tuyệt vọng đều cho người ta bi quan, riêng tình yêu tuyệt vọng của Hàn Mặc Tử lại dạy cho ta thành quả nhân văn cao cả. Nhà thơ níu kéo cuộc sống này bằng tình yêu, dù đó là một tình yêu tuyệt vọng. con người không gặp hoàn cảnh bi đát như Hàn Mặc Tử, nên con người cần phải biết sống như thế nào, yêu như thế nào trong cuộc đời tuyệt đẹp ở trần thế đáng sống này.

Đây thôn vĩ dạ thơ hàn mặc tử ngữ văn lớp 11

phân tích bài Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 3

Ai đã từng say trăng như Hàn Mặc Tử? Cả một toàn cầu trăng trong thơ ông:

Trăng nằm sóng soài trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…”

(Bẽn lẽn)

“Bỗng đêm nay trước cửa bóng trăng quỳ
Sấp mặt xuống uốn mình theo dáng liễu”

(Hãy nhập hồn em)

“Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối
Gió thu lọt cửa cọ mài chăn”.

(Đêm không ngủ)

Nhà thơ còn nói về thuyền trăng, sông trăng, sông trăng… Cả một thế giới hư ảo, diệu kì. Thơ Hàn Mặc Tử tràn đầy ánh trăng, thể hiện một tâm hồn “say trăng” với tình yêu thiết tha với cuộc đời, vừa thực vừa mộng. Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất của phong trào Thơ mới (1932-1941). Với 28 tuổi đời (1912-1940), ông đã để lại cho nền thơ ca nước nhà hàng trăm bài thơ và một số vở kịch thơ đặc sắc. Thơ ông như chảy ra từ máu và nước mắt, với nhiều hình ảnh kinh dị. Không ai hiểu rõ về mùa xuân và thiếu nữ (“Mùa xuân chín”), về xứ Huế đẹp và chất thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” như Hàn Mặc Tử.

“Đây thôn Vĩ Dạ” trích trong “Tuyển tập thơ điên” xuất bản năm 1940, một khi nhà thơ qua đời. Bài thơ nói rất hay về Huế, về phong cảnh thiên nhiên hữu tình, về con người xứ Huế, quan trọng nhất là những cô gái duyên dáng, đa tình và đáng yêu. Hàn Mặc Tử viết về một tình yêu – tình yêu đơn phương, nồng nàn nên thơ, đẹp đẽ trong sáng và huyền ảo. Đoạn thơ thể hiện một nỗi bâng khuâng, một niềm khao khát hạnh phúc của nhà thơ đa tình, có nhiều nhân duyên với cảnh và người Vĩ Dạ.

Câu đầu của khổ thơ đầu thật “ngọt ngào” như một lời mời gọi vừa hân hoan ngày đoàn tụ vừa nhẹ nhàng trách móc người thương về bao nhớ nhung, chờ đợi. Giọng thơ nhẹ nhàng, đằm thắm, trìu mến: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”. Có rất xa. Những cảnh xưa người xưa thấp thoáng trong những vần thơ đẹp với nỗi nhớ da diết. Bao kỉ niệm ùa về trong hồn thơ. Nó luôn đi chung với cảnh sắc miệt vườn và chúng ta xứ Huế mộng mơ:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới. Lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền?”

Cảnh được đề cập đến là một buổi bình minh tuyệt đẹp ở thôn Vĩ. Nhìn từ xa, nhà thơ đang say sưa ngắm những ngọn cau, những tàu cau lấp lánh dưới nắng mới, “nắng mới” rực rỡ. Hàng cau cao vút là hình ảnh thân thuộc của thôn Vĩ Dạ từ bao đời nay. Hàng cau như chào, như vẫy gọi.

bỏ xót màu xanh ở đây đi. Nhà thơ đã thốt lên đầy thán phục khi đứng trước một vườn Vĩ Dạ xanh mướt: “Vườn ai xanh như ngọc bích”. Sương đêm ướt đẫm cỏ cây hoa lá. Màu xanh mơn mởn, non mơn mởn, óng ả dưới ánh mai hồng trông thật “mượt” một màu xanh ngọc bích. Đất đai màu mỡ, khí hậu điều hòa, người dân cần mẫn chăm bón mới có màu “xanh ngọc” ấy. Thiên nhiên rực rỡ, trẻ trung và tràn đầy sức sống. Cũng đề cập về màu xanh ngọc bích, trước đó (1938) Xuân Diệu đã viết: “Đổ trời xanh ngọc bích qua kẽ lá…” (“Thơ tình”). Hai chữ “vườn ai” gợi bao bất ngờ xen lẫn xót xa. Câu thơ thứ tư tả thiếu nữ bên khóm trúc trong vườn xuân: “Lá trúc che mặt phông”. Mặt trái xoan, mặt phấn son, mặt búp sen là vẻ đẹp của một mỹ nhân. gương mặt chữ điền là khuôn mặt đầy đặn, vuông vức và phúc hậu. “Lá trúc giăng ngang” là nét vẽ truyền thần đã làm nổi bật vẻ đẹp của người con gái Huế duyên dáng, dịu dàng, kín đáo, đằm thắm. Hàn Mặc Tử đã hơn một lần đề cập về tre và những cô gái. Khóm tre như bóng mát xanh che chở cho một tình yêu đẹp đang chớm nở:

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”

(Mùa xuân chín)

Câu 3, 4 trong khổ thơ đầu tả cau, tả nắng, tả vườn, tả tre và thiếu nữ với một cách phối màu nhẹ nhàng, thoáng đãng, ẩn hiện, mơ hồ. Đặc sắc đặc biệt là hai hình ảnh so sánh và ẩn dụ (xanh như ngọc… mặt chữ điền). Cảnh và người ở Vĩ Dạ thật hiền hòa, dễ dàng sử dụng và dễ mến.

Vĩ Dạ là một ngôi làng nằm bên bờ Hương Giang, ngoại ô cố đô Huế. Vĩ Dạ đẹp với con đò mộng mơ, vườn cây xanh tươi bốn mùa, hoa trái xum xuê. Những ngôi nhà xinh xắn thấp thoáng sau những hàng cau, rặng tre, nơi thường cất lên câu hát “Nam Ai, Nam Bình” qua tiếng đàn tranh, tiếng đàn tam thập lục huyền ảo, du dương. Đây thôn Vĩ Dạ đẹp và thơ mộng. Hàn Mặc Tử đã tặng Vĩ Dạ bài thơ đẹp nhất bằng tất cả tình cảm yêu thương của mình. Đã bao năm rồi Huế và Vĩ Dạ xa cách. tuy nhiên, cảnh vật và con người thôn Vĩ vẫn được nhà thơ bao dung, càng trở nên đẹp đẽ huyền ảo, thể hiện niềm mong mỏi tha thiết được trở về cố đô thăm lại cảnh xưa. Bức tranh tâm trạng đã khéo léo thể hiện bức tranh thơ mộng, hữu tình của thôn Vĩ.

Khổ thơ thứ 2 đề cập về cảnh mây trời, sông nước. một không gian nghệ thuật thoáng đãng, mơ hồ, xa xăm. Câu 5, 6 là những hình ảnh mô tả gió, mây, sông và hoa (hoa ngô đồng). Giọng thơ nhẹ nhàng, hơi buồn. Nghệ thuật tương phản tạo nên một khung cảnh hài hòa, cân đối và sinh động. Gió và mây lùi xa như tình yêu của nhà thơ, tưởng gần mà xa, xa lắm. Dòng sông Hương êm đềm trôi thầm lặng, trong tâm tưởng nhà thơ trở nên “buồn bã” và đượm buồn. Những bông hoa ngô đung đưa, nhẹ nhàng đung đưa trong gió nhẹ. Nhịp điệu nhẹ nhàng, thơ mộng của miền sông Hương, núi Ngự được miêu tả thật tinh tế! Những ám chỉ tu hút gợi lên bao câu hỏi mơ mộng. Ngoại cảnh bao la ngăn cách như trái tim, như tâm tư nhà thơ;

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ tự hỏi “ai” hay tự hỏi mình khi nhìn thấy hay nhớ lại hình ảnh con thuyền mơ màng trên sông trăng. Dòng sông Hương quê tôi biến thành “sông trăng”. Hàn Mặc Tử với tình yêu Vĩ Dạ đã làm nên bài thơ hay về sông Hương với những con thuyền dưới trăng. Nguyễn Công Trứ từng viết: “Gió trăng chứa đầy thuyền”. Hàn Mặc Tử cũng giúp sức cho thơ ca đất nước ta hiện đại một câu thơ thất ngôn độc đáo:

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?

Tâm hồn nhà thơ xao xuyến khi nhìn dòng sông trăng và con thuyền. Thuyền tôi hay “thuyền ai” vừa quen, vừa xa lạ. Chất thơ kỳ ảo trong “Đây thôn Vĩ Dạ” chính là ở những chất liệu thơ ấy. Câu thơ gợi một hồn thơ xao xuyến trước vẻ đẹp thơ mộng của xứ Huế miền Trung, thể hiện một tình yêu thầm kín, nhẹ nhàng, mộng mơ và có chút buồn man mác. Ở đây, bức tranh tâm trạng tràn ngập ánh trăng, thấm đẫm một nỗi buồn cô đơn của khách đa tình.

Khổ thơ thứ ba đề cập về cô gái Huế và tâm trạng của nhà thơ. Sinh thời, nhà thơ Nguyễn Bính đã viết về những cô gái sông Hương: “Những cô gái sông nước”

Hương – Da thơm là phấn, má hồng là son…”. Vĩ Dạ mưa nhiều, sáng chiều sương mù mịt. Khói lam mờ áo trắng em nhận không ra dáng người (người) hình ảnh) khi ngắm nhìn. Câu thơ chập chờn, thanh khiết, kín đáo và duyên dáng Gần mà xa mà thực. Mà thực mà mơ. Câu thơ rung động buồn ta biết Hàn Mặc Tử đã từng có một người đẹp mối tình ngang trái với một cô gái trẻ Huế mang tên một loài hoa đẹp, phải chăng nhà thơ đang nói về mối tình này?

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

“Mơ khách đường xa, khách đường xa… ai biết… ai có…” Những ám chỉ, luyến láy ấy tạo nên một giai điệu sâu lắng, êm dịu, mênh mang. Khoảng cách và nỗi buồn chia ly dường như kéo dài trong khung cảnh và thời gian vô tậnngười đọc càng thêm thương cảm cho nhà thơ tài hoa, đa tình nhưng kém may mắn, từng say đắm mối tình đơn phương mà suốt đời phải sống trong cô đơn, bệnh tật.

Cũng cần nói đôi lời về chữ “ai” trong bài thơ này. Cả bốn lần từ “ai” xảy ra đều mơ hồ và đầy ám ảnh: “Vườn ai sao xanh như ngọc?” – “Thuyền ai cập bến trên sông trăng kia?” – “Ai biết tình ai có giàu không?” Người mà nhà thơ đề cập là một người đã đi xa, trong nỗi nhớ nhung, tuyệt vọng. Nhà thơ luôn cảm nhận thấy mình lạc lõng, lạc lõng trước một tình yêu đơn côi. Niềm hy vọng mong manh mà tha thiết như có phai mờ sương khói ?.

Hàn Mặc Tử đã để lại cho con người một bài thơ tình hay và cảm động. Cảnh và người, mộng và thực, nồng nàn và buồn bã, ngỡ ngàng và dửng dưng… biết bao hình ảnh và cảm giác đẹp mà buồn hội tụ trong ba khổ thơ thất ngôn, thất ngôn tứ tuyệt. “Đây thôn Vĩ Dạ” là một bài thơ tình tuyệt tác. Màu xanh ngọc bích vườn ai, con đò cập bến sông trăng, màu trắng áo em như dẫn hồn anh về thôn Vĩ Dạ khói lửa một thời đã xa, tìm bóng giai nhân, để nhớ nhà. Có tài thơ, đa tình nhưng bạc mệnh. Bức tranh tâm trạng trong “Đây thôn Vĩ Dạ” đọng lại mãi trong lòng ta. Nhà thơ Thu Bồn đã nói hộ lòng tôi.

“Xin chào Huế một lần anh đến
Để ngàn lần anh nhớ trong mơ
Em rất thực mà nắng thì mờ ảo
Xin đừng lầm em với cố đô”.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 3

Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng xuất sắc. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thương hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của bạn đọc. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không những thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp nơi thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Văn mẫu lớp 11: Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử

mở bài bài thơ là một câu hỏi tu từ ẩn chứa nhiều ý nghĩa, đã tốn không ít giấy mực của các nhà các phê bình văn học:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?”

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương cướp nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. nếu hiểu theo trường hợp này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở bài cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ trước tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có khả năng do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn chính mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mơ ước một lần được quay trở lại địa điểm đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người coi đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

những hình ảnh thân thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người coi hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách sử dụng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện một khung cảnh thật tươi đẹp và đầy sức sống. biện pháp tu từ ghen tị được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho ta biết thôn Vĩ không chỉ hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì xuất sắc đến thế, còn con người thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người coi cảm nhận được điều đấy bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn gương mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người coi nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mến của tác giả so với chúng ta và cảnh vật vùng đất yên bình đó.

nếu khổ thơ đầu mang lại một hình ảnh tươi vui, sống động thì ở khổ thơ thứ 2 lại mang ta đến với những ảnh chụp chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quyện với nhau. tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ kiên định 4-3, câu thơ thể hiện một sự chia lìa, xa cách. Nhà thơ bắt đầu sử dụng cách thức làm nhân hóa tài tình trong câu thơ tiếp theo với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” Kết hợp với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đấy dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người đọc càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta hay gặp hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. nếu nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng bất tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. nếu như đặt vào hoàn cảnh sáng tác và Kết hợp với thông tin khổ thơ đầu, người đọc cũng có thể hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và con người đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mong ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, ước muốn về thăm tuy nhiên dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có thể trờ về.

Sau những ảnh chụp buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại tiếp tục đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, vô vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa muốn trở về thăm xứ Huế. Khổ thơ không những có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một vài tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gửi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh sống độngmột vài tài liệu lại cho rằng đó là tấm hình của bà mặc một chiếc áo dài. cho dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa độc giả đến một cõi xa xôi nào đó, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa chốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để tìm kiếmnhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, vô vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời trả lời ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người coi và thể hiện tài năng dùng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất ấm áp thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí bạn đọcbằng cách dùng ngôn ngữ tài tình và các biện pháp tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người coi một sự thấu hiểu về sự cô đơn khắc khoải và mơ ước trở về với mảnh đất lung linh cũng như mơ ước trở về với cuộc sống bình thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim bạn đọcđóng góp một tác phẩm tuyệt vời cho nền thi ca nước nhà.

Xem Thêm  Top 10 văn mẫu phân tích Việt Bắc đoạn 4 hay và độc đáo

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 5

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ
Hàn Mặc Tử là một trong những cây bút tài năng tuyệt vời. Những tác phẩm của ông thường ít tả và kể mà thường hướng tâm, hướng nội. “ Đây thôn Vĩ Dạ” – một trong những tác phẩm nổi tiếng của nhà thơ đã để lại một dấu ấn sâu sắc trong trái tim của bạn đọc. Bài thơ được sáng tác trong thời gian Hàn Mặc Tử đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ không những thể hiện nỗi nhớ, tình yêu đối với người con gái xứ Huế ông thầm thương, với mảnh đất đẹp địa điểm thôn Vĩ mà ẩn sâu trong đó còn có cả sự cô đơn, nuối tiếc và nỗi buồn chất chứa trong trái tim tác giả.

Có ý kiến cho rằng, nhà thơ Hàn Mặc Tử khi đang nằm điều trị căn bệnh nan y, người con gái tên Hoàng Thị Kim Cúc mà ông thầm thương trộm nhớ đã gửi cho nhà thơ một tấm bưu ảnh với vài lời thăm hỏi trong đó có hỏi nhà thơ sao bấy lâu không về thăm thôn Vĩ. nếu hiểu theo trường hợp này, có lẽ nhà thơ đã mượn lời hỏi thăm ấy để mở đầu cho bài thơ của mình. Câu hỏi tu từ trước tiên thể hiện một sự trách móc nhẹ nhàng của người con gái. Cũng có thể do nhà thơ tự phân thân hoặc tự vấn bản thân mình đã bấy lâu rồi không về thăm mảnh đất ấy với một niềm mơ ước một lần được quay trở lại nơi đây.

Trong khổ thơ đầu, bài thơ cũng đã mang người đọc đến với một quê hương thôn Vĩ đẹp đẽ, thơ mộng:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc?
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”

những ảnh chụp quen thuộc bình dị và đặc trưng của thôn Vĩ như “hàng cau”, “vườn ai” đã được nhà thơ khéo léo tái hiện trong ba câu thơ. Trước mắt người coi hiện lên là hình ảnh của những hàng cau tăm tắp vươn lên trước “nắng mới”, với khu vườn đã “mướt” lại “ xanh như ngọc”. Với cách dùng ngôn ngữ tài tình trong hai từ “ nắng mới”, “mướt” , câu thơ thể hiện khung cảnh nhất định thật tươi đẹp và đầy sức sống. cách thức làm tu từ ghen tị được nhà thơ sử dụng khéo léo trong câu thơ thứ ba “xanh như ngọc” cho thấy thôn Vĩ không những hữu tình, nên thơ mà còn rất trù phú. Cảnh vật thiên nhiên trong bài thơ thì xuất sắc đến thế, còn chúng ta thì rất thật thà và đôn hậu qua hình ảnh “lá trúc” với “mặt chữ điền”. Chỉ hai hình ảnh ấy thôi cũng đủ để người coi cảm nhận được điểu đấy bởi người xưa thường ví cây trúc với người quân tử, còn khuôn mặt chữ điền thường là những người có tấm lòng nhân hậu. không chỉ khắc họa hình ảnh tươi đẹp, con người đáng yêu của thôn Vĩ, bài thơ còn cho người coi nhận thấy được sự ngợi ca, lòng yêu mếm của tác giả đối với con người và cảnh vật vùng đất ấm áp đó.

nếu như khổ thơ đầu mang đến một hình ảnh tươi vui, sống động thì ở khổ thơ thứ hai lại mang ta đến với những ảnh chụp chia lìa, một nỗi buồn trống trải chất chứa của nhà thơ:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”

Người ta thường nói “gió thổi, mây bay” bởi gió và mây thường đi liền với nhau, gắn bó, hòa quện với nhau. tuy nhiên trong câu thơ trên thì gió đi một lối, mây đi một đường. Kết hợp với nhịp thơ rứt khoát 4-3, câu thơ thể hiện một sư chia lìa, xa cách. Nhà thơ bắt đầu sử dụng biện pháp nhân hóa tài tình trong câu thơ kế đến với hình ảnh “dòng nước buồn thiu” liên kết với hình ảnh “hoa bắp lay”. Điều đấy dường như hé lộ một nỗi buồn mang mác của người thi sĩ lúc này bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”.

Càng đọc những câu thơ tiếp, người coi càng dần thấy được một Hàn Mặc Tử cô đơn, u sầu và hướng nội:

“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”

Trong thơ ca xưa nay, người ta hay gặp hình ảnh của trăng được rất nhiều thi nhân đưa vào trang viết của mình. nếu như nhà thơ Lý Bạch có “Ngẩng đầu ngắm trăng sang – Cúi đầu nhớ cố hương”, Bác Hồ có “trăng vào cửa sổ đòi thơ” thì Hàn Mặc Tử cũng góp vào nguồn cảm hứng vô tận ấy hình ấy một “bến sông trăng” và con thuyền “chở trăng”. Có lẽ hình ảnh ẩn dụ “sông trăng” và thuyền “chở trăng” là hai hình ảnh cực kỳ đắt giá và mang nhiều ý nghĩa nhất trong khổ thơ này. “Trăng” ở đây có thể hiểu như một người bạn tri kỷ mà lúc cô đơn này nhà thơ rất cần để giãi bày tâm sự. nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác và Kết hợp với nội dung khổ thơ đầu, người coi cũng có khả năng hiểu rằng trăng chính là nhà thơ. Bởi lẽ ở khổ thơ đầu hình ảnh thôn Vĩ và chúng ta đáng yêu đến thế thì hình ảnh thuyền “chở trăng về” chính là hình ảnh ẩn dụ một mơ ước của thi nhân được trở về mảnh đất ấy. Hai từ “thuyền ai” cùng câu hỏi tu từ cuối khổ thơ dù thể hiện nỗi niềm đau đáu nhớ về thôn Vỹ, mong muốn về thăm nhưng dường như lại chất chứa cả một nỗi khác khoải, cô đơn của nhà thơ khi biết mình đang mang bệnh khó có khả năng trờ về.

Sau những ảnh chụp buồn man mác và sự cô đơn trong nỗi lòng người thi sĩ thì bài thơ lại bắt đầu đưa ta đến với một cõi mộng ảo, hư hư thực thực với một sự chới với, tuyệt vọng trong trái tim tác giả:

“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Aó em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Với điệp từ “khách đường xa” được nhấn mạnh hai lần, câu thơ thể hiện một sự xa cách vô cùng. Vậy vị ‘khách đường xa” ấy là ai? có thể đó chính là nhà thơ – một vị khách đường xa mong muốn trờ về thăm xứ Huế. Khổ thơ không chỉ có vị khách mà còn có hình ảnh người em áo trắng. Trong một số tài liệu có viết rằng bà Hoàng Thị Kim Cúc gởi cho ông một tấm bưu ảnh phong cảnh đẹp đẽmột vài tài liệu lại cho rằng đấy là tấm hình của bà mặc một chiếc áo dài. Và dù theo tài liệu nào thì người ta cũng vẫn ngầm hiểu rằng hình ảnh cô gái áo trắng trong bài thơ chính là Hoàng Cúc – người mà thi sĩ thầm thương bấy lâu. Hình ảnh “trắng” “ nhìn không ra” cùng “sương khói mờ nhân ảnh” đã đưa bạn đọc đến một cõi xa xôi nào đấy, mờ mờ ảo ảo. Dường như niềm thương, nỗi nhớ và mong ước trở về thăm lại người xưa trốn cũ của nhà thơ với con thuyền chở trăng khó kịp nên ông đã vào tận trong cõi mơ để chọn lựanhưng có lẽ cuộc tìm kiếm ấy vẫn chới với, tuyệt vọng khi thi sĩ thốt lên “Ai biết tình ai có đậm đà?”. Lại một lần nữa nhà thơ tự hỏi lòng mình – một câu hỏi không biết có lời giải đáp ấy lại càng cho thấy rõ sự khắc khoải vô cùng của nhà thơ. nếu khổ thơ đầu có “vườn ai”, khổ thơ thứ có “thuyền ai” thì khổ thơ thứ ba lại có “tình ai” nằm trong những câu hỏi tu từ ở mỗi khổ đều có sức truyền cảm lớn đến trái tim của người đọc và thể hiện tài năng sử dụng ngôn từ tài tình bậc thầy với lời ít nhưng ý nhiều của nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Gấp lại trang thơ, hình ảnh miền quê tươi đẹp, trù phú và con người xứ Huế cùng tình yêu của nhà thơ với mảnh đất ấm áp thôn Vĩ vẫn khắc sâu trong tâm trí bạn đọcbằng cách sử dụng ngôn ngữ tài tình và các cách thức làm tu từ một cách khéo léo, bài thơ cũng mang cho người đọc một sự đồng cảm về sự cô đơn khắc khoải và mong ước trở về với mảnh đất sống động cũng như mơ ước trở về với cuộc sống đời thường của nhà thơ Hàn Mặc Tử. “Đây thôn Vĩ Dạ” sẽ mãi ghi dấu ấn trong trái tim độc giảgiúp sức một tác phẩm tuyệt vời cho nền thi ca nước nhà.

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ ngắn gọn mẫu 1

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là một trong những tuyệt phẩm mà nhà thơ Hàn Mặc Tử đã để lại cho nhân gian. đấy là những áng thơ bay bổng và ngọt ngào. Trước khi viết bài thơ thì thi sĩ đã mắc bệnh phong tuy nhiên vẫn mang trong mình nỗi nhớ thương, đau đáu nhớ về quê hương Vĩ Dạ đó là địa điểm chứa biết bao nhiêu thời gian sống động mà nhà thơ đã gắn bó ở đây.

Xứ Huế chính là quê hương thứ 2 của nhà thơ Hàn Mặc Tử khi ông đang còn làm nhân sự sau đấy mới chuyển vào Sài Thành và viết báo. Cố đô Huế hiện lên trong tác phẩm của nhà thơ có biết bao cảnh đẹp trữ tình mà con người nơi đây cũng đẹp đẽ. Huế cũng chính là mảnh đất có đặc trưng trồng rất nhiều cây cau ấy vậy mà trong thơ Hàn Mặc Tử có nói đến:

“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên”

đó là lời trách mắng dịu dàng và nhẹ nhàng mà khi ai đọc đến cũng có thể đoán được đấy chính là lời trách của một cô gái so với một chàng trai. nhưng nghe câu nói sao thấy mượt mà nửa dỗi hơn đáng yêu đến vậy! Cô gái trách cứ với đối phương trai rằng sao không về chơi thôn vĩ để coi những hàng cau mới mọc lên và được những ánh nắng “rót” vào.

Những cây cau mọc cao và có lá màu xanh mướt nhìn đã rất đẹp nay lại còn được phủ trên mình những ánh nắng màu vàng óng ả nữa! Ôi chao thật đẹp đúng là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp chan hòa ánh sáng. Chưa dừng lại ở đấy mà khi đọc đến hai câu thơ kế đến ta lại được chiêm ngưỡng cảnh đẹp hoàn mỹ đến khó tưởng:

“Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

nếu các bạn đã từng đi tham quan ở Huế thì sẽ thấy những mảnh vườn xinh xắn có cỏ và những cây cau mọc bên vườn. Người Huế đơn giản lắm họ chỉ phải sống gần gũi với thiên nhiên mộc mạc mà trữ tình vậy á cũng đủ cho ta thấy cuộc sống của họ thật nên thơ và tuyệt đẹp khi họ không cần những tòa nhà cao tầng chọc trời hay những chiếc xe ô tô to lớn, khi vào đến Huế chúng ta mới cảm nhận hết được vẻ đẹp của ngày xưa được hiện diện ra sao.

Đường phố thì đông đúc người qua lại người đi bộ người đi xe đạp không hề ồn ào cũng không hề hấp tấp. Tác giả miêu tả: “Vườn ai mướt quá xanh như ngọc” chính là vẻ đẹp của những cây cỏ xanh mướt được những giọt sương sớm đọng lại. Khoảnh khắc ấy đã tuyệt đẹp nay còn nét hơn khi có những tia nắng chiếu vào.

Cảnh vật như hoa lệ và mỹ miều hơn bao giờ hết. Mướt quá chỉ sự vật cỏ cây mọc tốt mà xanh non quá đến nỗi xanh như ngọc. Mà ngọc có màu xanh thể hiện cho màu xanh biếc. Tác giả thật khéo liên tưởng giữa màu xanh của cỏ cây và màu xanh của ngọc. Qua đây ta mới thấy được sự tinh tế cũng như khéo quan sát của nhà thơ Hàn Mặc Tử biết bao.

Người xứ Huế hiện lên vẻ đẹp trung thực và hiền lành biết bao qua câu thơ: “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. khuôn mặt hình chữ điền chính là sự thể hiện cho phúc hậu, vuông vắn mà toát lên sự hiền lành và đôn hậu của những con người địa điểm đây. Đến khổ thơ thứ 2 thì tác giả đã đáng chú ý khắc họa rõ nét hơn về nhịp sống của những con người địa điểm xứ Huế chậm rãi mà êm ả:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”

Dòng nước chảy chậm đến nỗi mà “buồn thiu” hoa bắp lay động cũng rất chậm. Câu thơ khiến ta cũng liên tưởng tới sự xa cách giữa lối gió một hướng , hướng mấy một hướng. Phải chăng đó chính là sự ly biệt, là đường thẳng song song không bao giờ có điểm chung của mối tình giữa đối phương trai Hàn Mặc Tử và cô gái Hoàng Thị Kim Cúc – một cô gái mà ngày xưa nhà thơ đã thầm thương trộm nhớ.

Và khi đọc đến câu thơ: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó, có chở trăng về kịp tối nay?” khiến người coi có khả năng liên tưởng được một thuyền nằm trên mặt sông và nơi đấy có cả vầng trăng sáng. Thuyền đi đến đâu như thể chở trăng đi theo đến đó. Liệu thuyền có chở trăng kịp về hay không?

Khổ thơ cuối chính là tình cảm của tác giả Hàn Mặc Tử dành cho cô gái xứ Huế mà ông vẫn luôn thương thầm được mô tả cụ thể qua 4 câu thơ cuối:

“Mơ khách đường xa khách đường xa

Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ mẫu số 2

Bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ là tác phẩm mà Hàn Mặc Tử đã viết bằng rất nhiều tận tâm. Đoạn thơ thể hiện tình yêu và nỗi nhớ quê hương xứ Huế mà tác giả đã từng công tác tại đây.

Hàn Mặc Tử (1912 – 1940) quê ở Bình Định nhưng có một thời gian học ở Huế và thực hiện công việc tại đây. Với anh, Huế là quê hương thứ hai và cũng là địa điểm để lại cho anh nhiều dấu ấn, kỷ niệm nhất. Qua việc Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ giúp ta hình dung được cảnh vật cũng giống như chúng ta xứ Huế địa điểm đây.

mở đầu bài thơ là những lời ngọt ngào mà tha thiết của cô gái dành cho đối phương trai: “Sao anh không về chơi thôn Vĩ”. Thôn Vĩ là một ngôi làng xinh đẹp nằm bên dòng sông Huế thơ mộng. Thôn Vĩ hay thường được gọi là Đây thôn Vĩ Dạ mà tác giả nhắc đến là một làng quê yên bình và xinh đẹp.

Đây cũng là địa điểm tác giả đã thực hiện công việc và học tập tại đây. Phải chăng đó là những lời thủ thỉ nhắc nhở của cô gái với chàng trai rằng hãy về Đây chơi thôn Vĩ Dạ vì nơi đây có rất nhiều cảnh đẹp và bí ẩn mà lâu rồi chàng trai chưa được đến thăm. không gian địa điểm đây đẹp đến lạ lùng khi tác giả đã mô tả rõ nét từng hình ảnh bình dị nhất:

“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền”

Ở đây, cảnh vật có hai màu chủ đạo là xanh và nắng vàng. Cảnh quan địa điểm đây có những hàng cau cao vút, xanh mướt một màu. Hình ảnh cây cau mọc thành hàng, vào mùa ra hoa thật đẹp. Hoa cau vừa đẹp lại vừa thơm, đấy là nguyên nhân cây cau bắt buộc phải làm ở Huế. nếu đã từng đến Huế, bạn có thể có dịp chiêm ngưỡng những vườn cau đẹp mê hồn của người dân địa điểm đây.

Ở Huế, bạn cũng sẽ thấy những sân cỏ rộng rãi với những cây cau bên trong. một môi trường tràn ngập sắc xanh và điểm tô bởi ánh nắng vàng khiến không gian trở nên mộng mơ, trữ tình. Vườn nhà đã được tác giả nói: “thật mát” một từ cho ta biết sự tươi tốt, màu mỡ của cảnh vật địa điểm đây. Những giọt sương long lanh còn đọng trên cây cỏ rồi ánh nắng nhẹ nhàng chiếu vào tạo nên những viên ngọc trai được tác giả miêu tả: “xanh như ngọc”.

cách thức làm so sánh được dùng ở đây khiến người coi liên tưởng hoặc tưởng tượng ra một bức tranh nhiều màu sắc mà tác giả đã vẽ nên. nhưng đến khổ thơ thứ 2, giọng thơ trở nên trầm lắng, thoáng chút buồn:

“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đấy
Có chở trăng về kịp tối nay?’’

Hai thứ gió và mây khi đề cập đến bao giờ cũng gợi cho ta sự yêu thương. Mây và gió luôn không thể tách rời, tượng trưng cho tình cảm lứa đôi gắn bó, thân thiết. nhưng ở đây, tác giả lại cho ta biết điều trái lại đó là sự ngăn cách, xa cách giữa gió và mây, mỗi người đi về một hướng. Phải chăng Đây là lời nhắn nhủ của nhà thơ với người con gái Hoàng Kim Cúc? Họ xa nhau một thời gian khá dài khi Hàn Mặc Tử vào TP. HCM viết báo và cô Cúc phụ giúp công việc cho cha.

Câu thơ thứ hai trong khổ thơ chính mô tả cuộc sống, sinh hoạt thường nhật của người dân xứ Huế chậm rãi, ấm áp như tả dòng nước chảy chầm chậm, chầm chậm. Những bông hoa ngô đung đưa nhẹ nhàng khi gió thổi.

Câu thơ kế đến là một phép gợi nhớ khiến người coi liên tưởng nhiều nhất đến cảnh có trăng và thuyền. Hai hình ảnh hiện lên thật trữ tình và soi bóng cả một dòng sông khi ánh trăng soi bóng một con thuyền. Đêm nay thuyền chở trăng về kịp hay lỡ làng? đây chính là cách nói ẩn ý của tác giả rằng chuyện tình của mình sẽ còn có khả năng quay lại và yêu thêm lần nữa hay hai người sẽ lạc mất nhau mãi mãi?

Khổ thơ cuối là lời thốt ra từ đáy lòng của tác giả và cũng là những suy ngẫm của tác giả về người con gái ấy:

“Mơ khách đường xa khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?”

Câu đầu trong khổ thơ cuối gây ấn tượng cho người đọc bởi sự lặp lại từ ngữ hai lần khách đường xa càng gợi thêm khoảng cách. Áo cô gái trắng đến nỗi tác giả không nhận ra nữa vì cô gái quá đẹp khiến tác giả không thể phát hiện ra người con gái mình đem lòng yêu. Sương khói dày đặc làm mờ hình ảnh của một người và tác giả tự hỏi liệu cô ấy có còn yêu và có tình cảm mãnh liệt với mình không? Câu thơ cuối là tiếng lòng của tác giả muốn hỏi người con gái ấy.

Qua phần Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ, ta sẽ biết Đây là bài thơ hay nhất mà Hàn Mặc Tử viết trước khi qua đời vì bệnh phong. Qua bài thơ ta có khả năng hình dung được vẻ đẹp của thiên nhiên cũng như con người ở mảnh đất Huế xinh đẹpđịa điểm từng là cố đô của Việt Nam. Đoạn thơ cũng khắc họa tình yêu chân thành mà nhà thơ dành cho người con gái Huế thật đậm đà và ngọt ngào!

Phân tích bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ ngán gọn mẫu số 3

Hàn Mặc Tử một nhà thơ tài hoa của văn học Việt Namđề cập đến ông, con người lại nhắc tới một người nghệ sĩ tài hoa, bạc mệnh. Qua bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, ta càng cảm nhận rõ hơn ngòi bút sắc sảo, sự tinh tế của Hàn Mặc Tử.

Bài thơ về xứ Huế mộng mơ “Đây thôn Vĩ Dạ”, là tiếng lòng tha thiết về quê hương, nhưng cũng đượm vẻ u buồn, man mác như dòng sông Hương hiền hòa với những câu hò đượm chút tình của Huế:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

mở đầu bài thơ bằng một câu hỏi tu từ, như lời trách nhẹ nhàng, vẫn chưa có chút giận hờn nào của một cô gái Huế với chàng trai mà cô thầm thương trộm nhớ. Câu thơ còn chứa đựng sự mong đợi, sự trách móc nhẹ nhàng, sao lâu rồi anh không về thăm thôn Vĩ. đó còn là một lời mời “dịu ngọt”, thôn Vĩ hiện lên, vẻ đẹp không mang nét hùng vĩ như cảnh “Đèo Ngang” hay mang trong mình sự huyền bí hư không, dưới ngòi bút của chính tác giả, hiện lên với vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng, đúng chất Huế.

Cái đẹp được tả từ ánh nắng ban mai “nắng mới”, ánh sáng tinh khiết nhẹ nhàng buổi sớm soi rọi xuống những “hàng cau” xanh mướt như đón lấy những tia nắng đầu tiên đấytoàn bộ như được phủ kín với ánh sáng, một thử ánh sáng tinh khôi, dưới ánh sáng đó toàn bộ vạn vật như rực lên sức sống đang tuôn trào.

Vườn ai mướt quá xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Một khoảng vườn hiện lên trước mắt con người, ta có thể cảm nhận được dù có nhắm mắt cũng có thể cảm thấy cái màu xanh linh hoạt, ngời lên dưới ánh ban mai. Nhà thơ đã dùng hình ảnh so sánh “xanh như ngọc” để diễn đạt sức sống tươi mát, nhựa sống của cây cối đang đâm chồi nảy lộc.

Giữa không gian thiên nhiên trữ tình đó, hình ảnh chúng ta như thấp thoáng đâu đây “Lá trúc che ngang mặt chữ điền”. chúng ta thường đề cập đến mặt tròn, mặt trái xoan… hiếm ai đề cập đến “mặt chữ điền”, chỉ một gương mặt hiền lành, phúc hậu.

con người thấp thoáng, ẩn hiện sau “lá trúc” mơ màng, hình ảnh hư thực. Đây có phải là người ghé thăm thôn Vĩ, là người con gái mà tác giả thầm thương cướp nhớ, một cô gái Huế dịu dàng, duyên dáng. Thôn Vĩ nằm cạnh dòng sông Hương hiền hòa, đẹp đẽ, những thửa vườn xanh mát, nằm cạnh đôi bờ sông Hương, vẻ đẹp hiện lên bâng khuâng:

Gió theo lối gió mây đường mây

Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đấy

Có chở trăng về kịp tối nay?

Câu thơ tả cảnh thiên nhiên, nhưng chứa đựng nỗi lòng của người thi sĩ. con người thường nói “gió thổi mây bay”, gió và mây cùng đi chung một hướng. thế mà trong thơ của Hàn Mặc Tử “gió theo lối gió, mây đường mây”. Có một sự chia lìa đến não lòng. Dòng nước sông Hương cũng đượm vẻ buồn hiu hắt với “hoa bắp lay” hai bên bờ. Cảnh vật như có sự chia lìa, lay động.

Phải chăng đây cũng là tâm trạng của chính tác giả trước nỗi nhớ người mà mình thương yêu, sự nuối tiếc khi không gặp được người trong mộng. Hình ảnh “thuyền và trăng” thường hay xảy ra trong thơ ca “gió trăng chưa một thuyền đầy” – Nguyễn Công Trứ. Và trong bài thơ này, Hàn Mặc Tử cũng mượn hình ảnh đầy chất trữ tình đấy để nói lên nỗi lòng của mình “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó”.

Ánh trăng soi bóng dưới dòng sông Hương, dòng sông của thi nhân không còn mang hình ảnh đơn thuần mà biến thành “sông trăng”, khiến cho cả dòng sông và cảnh vật trở nên đẹp đẽ, huyền ảo. Có ai ngờ được rằng “dòng nước buồn thiu” vì “hoa bắp” bay theo ánh chiều tà lại có khả năng biến thành một dòng “sông trăng” nên thơ như thế.

“Thuyền ai” là thuyền của một người xa lạ, hay phải chăng là con thuyền mang theo người mà nhà thơ thầm thương trộm nhớ, hình ảnh vừa thân quen, vừa xa lạ. Câu hỏi tu từ hiện lên day dứt, khắc khoải “Có chở trăng về kịp tối nay”. Câu hỏi nhưng không có câu trả lời, là sự nuối tiếc, hay là sự lỡ dở trong tình yêu, “kịp” khiến cho câu thơ trở nên vội vàng, gấp gáp hơn, dường như đang cố gắng chạy đua để bắt kịp với những chờ mong, hay với tình yêu mà nhà thơ hằng ấp ủ?

tuy nhiên tất cả những khắc khoải, nhớ thương ấy chỉ là trong tiềm thức, đơn giản tan biến như chính ánh trăng dưới dòng sông Hương kia. Hiện thực chỉ một giấc mơ đến phũ phàng:

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà?

Nhà thơ đã sử dụng những điệp ngữ “khách đường xa… Khách đường xa” khiến cho giọng thơ trở nên sâu lắng, nỗi nhớ trong ký ức, nỗi buồn ở hiện tại. tất cả như mờ đi bởi màu áo trắng, màu sáng tinh khôi ấy hiện lên dưới ánh sáng của mặt trời, là màu tượng trưng cho màu đồng phục của những nữ sinh Huế.

Và trong bài thơ này nó còn là màu nhớ nhung của chính tác giả. Dưới làn sương mờ buổi sớm mai “sương khói mờ nhân ảnh” hình ảnh màu trắng ấy như nhạt nhòa, như ẩn, như hiện, trở nên xa vời, khó kiểm soát. Giữa cái hư không ấy, câu thơ cuối như một sự thất vọng của chính tác giả “Ai biết tình ai có đậm đà?”.

Sự thất vọng của một tình yêu chưa bao giờ được đáp lại, lời thơ như phảng phất sự u sầu. Bài thơ kết thúc bằng sự ngậm ngùi. Nhà thơ không nói với ai mà chỉ nói với chính lòng mình, sự băn khoăn không biết tình cảm kia có “đậm đà” hay chỉ hư ảo như màu áo trắng trong không rõ ràng trong làn sương mờ buổi sớm.

Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là sự cộng hưởng tuyệt đối giữa cảnh và tình. Qua đó, ta càng khâm phục hơn nghị lực sống của chính tác giả, cùng sự tài hoa của một nghệ sĩ giàu tình yêu thương.

Tổng kết

Trên Đây là tổng hợp các mẫu bài phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay nhất được Vanhoc.edu.vn cập nhật tổng hợp từ các nguồn uy tín nhất gửi tới các bạn tham khảo và có thể ứng dụng các bài phân tích trên thành bài văn của mình. Chúc các bạn thành công.

Nguồn Tổng hợp

Similar Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *