Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến hay và mới nhất 2023

phân tích 14 câu đầu bài tây tiến

Bạn đang gặp vấn đề trong việc phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến? Bạn muốn bài viết của bạn trở nên độc đáo cũng như không bị trùng lặp với bất cứ ai? Đọc ngay bài viết sau đây của trang web vanhoc.edu.vn để biết ngay cách phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến của Quang Dũng cũng như có sẵn bài mẫu để bạn tham khảo. Yên tâm rằng bài văn mẫu được làm mới liên tục và có điều chỉnh độ dài ngắn khác nhau tuỳ vào nhu cầu của bạn.

Dàn ý phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến gần với giáo án nhất

Dưới đây là hai mẫu dàn ý phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến hay và gần với giáo án nhất được đội ngũ vanhoc.edu.vn biên soạn:

Dàn ý phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến ngắn gọn mẫu 1

1. Mở bài: Giới thiệu tác giả và tác phẩm

– Dẫn dắt vào đoạn 1 của bài thơ: Đoạn đầu của bài Tây Tiến thể hiện một thời kháng chiến gian khổ, hào hùng của đoàn quân.

2. Thân bài

2.1 Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến

– “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.

– “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.

=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm không bao giờ quêncùng lúc đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng trong lòng tác giả.

2.2 Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính

– “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn công việc của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các khung cảnh khác trong bài thơ.

– Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng không gian rộng rãi, mỗi một địa điểm bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đáng chú ýbiến thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.

– Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.

– Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.

– “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn thơ mộng, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.

– “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị thơ mộng giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.

2.3 Hình ảnh người lính và kỷ niệm tình quân dân

– Hai câu thơ “Anh bạn… bỏ xót đời”:

  • Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, tư thế hiên ngang, oai hùng chuẩn bị và sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
  • Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.

– Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều… nếp xôi”

  • Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, sử dụng động từ mạnh, chèn vào đó là sự nguy hiểm rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú.
  • Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.

3. Phần kết thúc

3.1 Giá trị nội dung

– Đoạn thơ 14 câu tái hiện rõ nét thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng.

3.2 Giá trị nghệ thuật

– Nghệ thuật tương phản và cường điệu, cách dùng từ láy gợi hình, gợi cảm để khắc họa một bức tranh giàu màu sắc, đường nét.

– Bút pháp hiện thực Kết hợp với cảm hứng lãng mạn; chất họa liên kết với chất nhạc => dựng lại con đường hành quân giữa núi rừng Tây Bắc hiểm trở, khắc nghiệt, hùng vĩ và mộng mơ.

  • Nghệ thuật hài thanh: Tác giả dùng câu thơ nhiều thanh trắc tạo nên sự trắc trở.
  • mộng mơ, trữ tình: với các từ ngữ độc đáo, ấn tượng: “hoa về” chứ không phải “hoa nở”; “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”.

Dàn ý phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mẫu 2

I. Mở bài:

  • Giới thiệu tác giả Quang Dũng
  • Giới thiệu bài thơ Tây Tiến

II. Thân bài:

– Hai dòng thơ đầu: Nỗi nhớ bao trùm, mạch cảm hứng chủ đạo của bài thơ

  • “Sông Mã”, “Tây Tiến” đều như trở thành những người thân thương ruột thịt mà Quang Dũng dành trọn tình cảm nhớ thương.
  • “Nhớ chơi vơi” là nỗi nhớ lạ lùng của những người lính từ phố thị.

=> Núi rừng Tây Bắc đã khắc vào tâm hồn của họ những kỷ niệm chưa bao giờ quênđồng thời cũng là nỗi trống trải lạc lõng trong lòng tác giả.

– Hai câu thơ tiếp:

  • “Sài Khao”, “Mường Lát” là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến, mở rộng sang các không gian khác trong bài thơ.
  • Nỗi nhớ ở đây dường như dàn trải khắp vùng khung cảnh rộng rãi, mỗi một nơi bước chân tác giả đi qua, ông đều dành những tình cảm yêu thương đáng chú ýbiến thành kỷ niệm khắc sâu trong lòng.
  • Những kỷ niệm nhỏ như sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều chứng minh nỗi nhớ lớn lao của tác giả.

– Bốn câu thơ tiếp “Dốc…xa khơi”:

  • Gợi sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc, sự vất vả và những nỗ lực kiên cường của người lính chiến khi hành quân.
  • “Súng ngửi trời” là hình ảnh nhân hóa thú vị, thể hiện tâm hồn thơ mộng, hồn nhiên và hài hước của người lính chiến trong gian khổ.
  • “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” là vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị thơ mộng giữa núi rừng hoang vu, gợi sự bình yên, chốn dừng chân cho người lính.

– Hai câu thơ “Anh bạn…quên đời”:

  • Sự hy sinh cao cả của người lính chiến, kiểu dáng hiên ngang, oai hùng chuẩn bị và sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc.
  • Niềm xót xa cùng với sự cảm phục tinh thần hy sinh của Quang Dũng dành cho đồng đội.

– Bốn câu kết đoạn: “Chiều chiều…nếp xôi”

  • Vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ, sử dụng động từ mạnh, thêm vào đó là sự nguy hiểm rình rập địa điểm rừng thiêng nước độc của ác thú.
  • Sự bừng tỉnh khỏi kỷ niệm của tác giả, quay về hiện thực với nỗi nhớ tha thiết, nồng nàn, nhớ tình quân dân ấm nồng với nắm xôi, hương lửa những ngày còn chiến đấu.

III. Kết bài:

– Khái quát lại giá trị thông tin và nghệ thuật của đoạn thơ.

phân tích 14 câu đầu bài tây tiến
phân tích 14 câu đầu bài tây tiến

Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mới nhất 2023

I/ mở đầu

Ra đời trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, cùng với “Nhớ” của Hồng Nguyên, “Đồng Chí” của Chính Hữu, “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm, “Tình sông núi” của Trần Mai Ninh, “Tây Tiến” của Quang Dũng đã làm nên bộ “Ngũ tư bất tử’ trong thơ ca thời kì kháng chiến chống Pháp. “Tây Tiến” là bài thơ của người lính đề cập về người lính – anh Vệ quốc quân thời chín năm kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng. Những kỉ niệm thời cầm súng chiến đấu, những tình cảm dành cho mảnh đất miền Tây, cho đồng đội cùng dầm mưa dãi nắng biết bao tháng ngày đã được Quang Dũng gởi qua nỗi nhớ mênh mang, da diết . Men theo nỗi nhớ đong đầy ấy, bức tranh thiên nhiên miền Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội đã được khắc họa thật đậm nét qua những câu thơ mở bài bài thơ:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

……

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Một tác phẩm ra đời đôi khi là sự thai nghén, thôi thúc của cả nội tâm và ngoại cảnh. “Tây Tiến” cũng vậy, là kết tinh của tình yêu, nỗi nhớ, niềm thương mà Quang Dũng gởi về cho binh đoàn Tây Tiến máu thịt, thân yêu của mình . Đoàn quân Tây Tiến được thành lập vào mùa xuân năm 1947, gồm phần lớn là những chàng trai trẻ của đất Hà thành, hào hoa, thanh lịch:

Những đối phương trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn mười phương phất cờ đỏ thắm

Nên tâm hồn họ lãng mạn, bay bổng, nhiều mộng và cũng lắm mơ. Đây là lợi thế cạnh tranh rõ nét làm nên chất thơ mộng và trữ tình cho bài thơ cũng như hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng. Họ ra đi chiến đấu mang trong mình lí tưởng: Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh, quyết tử cho tổ quốc quyết sinh. Một lí tưởng sáng ngời chân lí của thế hệ thanh niên thời đại Hồ Chí Minh. Địa bàn công việc của đoàn binh Tây Tiến là một khu vực rộng khắp kéo dài từ Mai Châu – Hòa Bình cho đến tận Thanh Hóa, kéo sang cả Sầm Nứa của Lào. đấy là vùng địa hình đồi núi phía Tây Bắc hiểm trở của tổ quốc. nơi rừng thiêng, nước độc, địa điểm thâm sơn cùng cốc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Những người lính Tây Tiến có nhiệm vụ chiến đấu, bảo vệ vùng biên giới phía Tây Bắc của tổ quốc, kết hợp cùng với bộ đội Pa-thét Lào đánh tiêu hao sinh lực địch. Cuộc sống chiến đấu vô cùng thiếu thốn, chông gai gian khổ. Điều kiện thiên nhiên khắc nghiệt. Chính bởi vậy mà những người lính Tây Tiến hi sinh vì mũi tên hòn đạn thì ít mà vì ốm đau, bệnh tật thì nhiều. Chỉ sau một năm chiến đấu, binh đoàn Tây Tiến đã hi sinh gần hết, đơn vị tan rã, đại đội trưởng Quang Dũng được chuyển sang một tổ chức khác và Tây Tiến sát nhập vào Trung đoàn 52. Một lần, ngồi bên dòng sông Đáy hiền hòa thuộc tỉnh Hà Đông cũ, kỉ niệm, kí ức về những tháng năm gắn bó cùng đồng đội thân yêu, vào sinh ra tử lại ùa về. Tây Tiến được viết lên trong nỗi nhớ trào dâng, da diết Quang Dũng gởi đến cho đất và người trọn vẹn một tình yêu.

Tác phẩm văn học có khả năng xem như đứa con tinh thần của nhà văn, nhà thơ. Chính vì thế đặt tên cho tác phẩm cũng là nỗi băn khoăn, trằn trọc của mỗi tác giả. Có những tác phẩm tên được đặt đi, đặt lại. “Tây Tiến” của Quang Dũng mới ra đời nó có tên là “Nhớ Tây Tiến”. nhưng có lẽ sau này Quang Dũng hiểu rằng, thơ là “ý tại ngôn ngoại”, không nói nhớ mà nỗi nhớ cứ như sóng trào dâng qua từng lời, từng câu, từng chữ, từng nhịp thơ. đấy mới là cái tài hoa của người nghệ sĩ. Nhan đề đã được tinh giản chỉ còn “Tây Tiến” mà nỗi nhớ vẫn chơi vơi, như mạch ngầm và là nguồn cảm hứng của cả bài. Bài thơ được in trong tập “Mây đầu ô” xuất bản năm 1948.

cảm xúc chủ đạo của đoạn thơ trước tiên chính là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây Tổ quốc hùng vĩ, dữ dội, bí hiểm mà thơ mộng, trữ tình. Qua đấy làm hiện lên hình ảnh người lính trên chặng đường hành quân đầy gian nan, nguy hiểm; tuy vất vả, hi sinh nhưng vẫn ngang tàng, trẻ trung, lãng mạn.

Sông Mã xa rồi, Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi

Hành hương về quá khứ, Quang Dũng đã nhắc tới sông Mã như một biểu tượng trước tiên của nỗi nhớ. Đây là dòng sông chạy dọc theo địa bàn biên giới Việt Nam với nhiều ghềnh thác dữ dội, một mình băng băng giữa núi rừng hùng vĩ. Sông Mã còn là dòng sông gắn liền với chặng đường hành quân vất vả của trung đoàn , từng chứng kiến và chia sẻ những buồn vui, những mất mát, hi sinh của người lính. Sông Mã biến mất là dòng sông vô tri trên bản đồ địa lí, nó đã trở thành người bạn, người thân, là nhân chứng lịch sử đi theo bước quân hành của người lính Tây Tiến, ghi dấu bao nhiêu kỉ niệm. Hai tiếng “xa rồi” gợi nhắc về thời gian, tất cả những kỉ niệm với đoàn quân Tây Tiến nay đã lùi xa vào dĩ vãng. Nhịp thơ 4/3 với dấu ngắt ở giữa dòng như một phút ngừng lặng để nhận ra sự trống trải, mênh mông trong thực tại , để sau đấy, hiện tại mờ đi, nỗi nhớ ùa vào trong tiếng gọi tha thiết nhìn về quá khứ. Tây Tiến ơi! Tiếng gọi tha thiết, khắc khoải. Dường như Tây Tiến không còn là tên của một tổ chức bộ đội nữa mà thân thiết, gắn bó như anh em máu thịt. Qua đó nói lên tình cảm gắn bó sâu nặng của nhà thơ với một thời, một vùng miền đã đi qua. Từ “ơi” thật thân thương được hiệp vần tinh tế với từ láy ” chơi vơi” ở câu sau khiến tiếng gọi như âm vang, đập vào vách đá, dội lại lòng người, da diết, bâng khuâng,…

cách thức làm điệp ngữ được tác giả vận dụng thật tinh tế để khắc sâu nỗi nhớ day dứt, miên man, ám ảnh không thể nguôi ngoai: Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi. Nhịp ngắt 4/3 chia câu thơ thành hai vế : vế đầu xác định đối tượng của nỗi nhớ “nhớ về rừng núi” – đó là không gian mênh mông của miền Tây với những địa danh như Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông,…Những địa danh vừa gợi lên con đường hành quân vất vả, gian khó vừa gợi tả lên sự heo hút, hoang vu của thiên nhiên Tây Bắc. Và bởi vậy , nỗi nhớ không chỉ bao gồm ở rừng núi miền Tây mà còn hướng về những năm tháng quá khứ gian khó với những người đồng đội, vế sau của câu thơ miêu tả sắc thái của nỗi nhớ “nhớ chơi vơi”. ” Chơi vơi ” là từ láy vần với hai thanh không (thanh ngang) gợi độ cao phiêu du, bay bổng, gợi cảm giác về một nỗi nhớ vô hình, vô lượng, không thể đo đếm, một nỗi nhớ mơ hồ, đầy ám ảnh, nỗi nhớ ăm ắp, khôn nguôi.

Hằn sâu trong kí ức của người chiến binh Tây Tiến, thiên nhiên miền Tây với hình thế sông núi hiểm trở nhưng không kém phần mộng mơ của miền Tây trên đường hành quân của người lính lại được hiện lên rõ nét và đầy sức gợi:

Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây sũng ngửi trời

ngàn thước lên cao, nghìn thước xuống

Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Ba câu thơ đầu mô tả sắc nét khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ và hiểm trở qua đấy làm hiện lên cuộc hành quân vất vả, gian lao và ý chí bất khuất, kiên cường của những người chiến binh Tây Tiến. Sự phối hợp trong năm thanh trắc trong câu thơ “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm ” đã tạo nên âm hưởng gồ ghề, gập ghềnh cho câu thơ 7 chữ, giúp người coi phần nào hình dung ra cuộc hành quân gian truân của người lính Tây Tiến. Điệp từ “dốc” lặp lại ở đầu hai vế câu để thể hiện sự trùng điệp, chồng chất của những con dốc như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính. Các từ láy “khúc khuỷu” (diễn tả sự gồ ghề, gập ghềnh), “thăm thẳm” ( diễn tả độ cao hun hút, độ xa vời vời) giàu giá trị tạo hình đã khắc họa sự hiểm trở của dốc núi và qua đấy làm hiện lên sự nhọc nhằn trên con đường hành quân của người lính.

Cái hoang vu, bí hiểm, dữ dội của thiên nhiên còn hiện lên qua hình ảnh “Heo hút cồn mây súng ngửi trời. Từ láy “heo hút” vừa gợi độ cao, vừa gợi độ xa, vừa gợi sự vắng lặng lại được đảo lên đầu câu để nhấn mạnh sự hoang sơ, hoang vắng, thăm thẳm như vô tận vô cùng. “Cồn mây” là một hình ảnh ẩn dụ cho ta biết mây núi miền Tây bộn bề, chồng chất, hình thành dốc, thành cồn, con đường như bị lấp vào trong mây, con đường hành quân của người lính vô cùng cheo leo và hiểm trở. Hình ảnh nhân hóa . “Súng ngửi trời” là một cách nói tếu táo, hóm hỉnh, đầy chất lính, cho thấy tâm hồn trẻ trung của những người lính phong trần, xem thường gian khó, hiểm trở. Câu thơ không chỉ gợi tả lên sự hiểm trở của dốc núi mà còn cho thấy tâm hồn tươi trẻ, lạc quan của những người chiến sĩ.

Nét dữ dội, hiểm trở như muốn thử thách ý chí, nghị lực của người lính lại được tô đậm hơn ở câu thơ thứ ba . Điệp từ “ngàn thước” liên kết với phép tương phản của các động từ lên – xuống trong hai vế câu đã làm ra cảm giác về một nét gấp đột ngột, dữ dội cho câu thơ, gợi tả độ cao của dốc, độ sâu của vực: bên này, đường lên núi dựng đứng, vút cao; bên kia vực đổ xuống heo hút, hiểm trở.

Cảm hứng lãng mạn trong thơ Quang Dũng lại đưa người đọc trở về với cảm giác ấm áp, nhẹ nhàng sau bao trải nghiệm về sự dữ dội của cảnh trí miền Tây. Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi – Câu thơ toàn thanh bằng với âm tiết mở đã tạo ra một không gian mênh mông, dàn trải, nhạt nhòa trong mưa. Hình ảnh ẩn dụ “mưa xa khơi” gợi cảm nhận về cả thung lũng mờ mịt như loãng tan trong biển mưa. Sau những chặng đường hành quân vất vả, người lính như dừng lại ở đâu đấy ngắm nhìn núi rừng trong mưa. Sắc thái phiếm chỉ của đại từ “ai” làm cho những ngôi nhà trở nên mơ hồ, xa xăm, huyền ảo . Sắc thái nghi vấn “nhà ai”gợi nỗi bâng khuâng, trăn trở trong lòng người. Giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi rừng mênh mông, hình ảnh ngôi nhà gợi cảm giác ấm áp, bình yên đã làm trào dâng nỗi nhớ nhung, xao xuyến trong lòng người chiến sĩ.

Xem Thêm  Top 10+ Mẫu phân tích Từ Ấy ngắn gọn, hay nhất Văn 11

Cảnh núi rừng hoang sơ, hùng vĩ bắt đầu được tái hiện qua đó làm rõ nét hình ảnh người chiến binh Tây Tiến trong sự vất vả, gian khó tuy nhiên đậm chất kiêu hùng.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ lãng quên đời

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Kí ức về người lính Tây Tiến đã hiện lên thật thơ mộng nhưng cũng thật bi hùng. Từ láy “dãi dầu” diễn tả sự nhọc nhằn, vất vả của các anh khi hành quân qua miền Tây, khi vượt qua những núi cao, vực sâu, thác ghềnh dữ dội, qua những nắng mưa, sương gió,….Với cách diễn tả chủ động “không bước nữa”, “bỏ quên đời”, tác giả đã làm hiện lên sự kiêu bạc, ngang tàng của những người chiến binh dãi dầu mưa nắng. Cách viết của nhà thơ mang đến cho ta hai cách hiểu: có thể hiểu, trên chặng đường hành quân gian khó, vất vả, người lính kiệt sức nên ngủ thiếp đi trong chốc lát để rồi lại tiếp tục chặng đường dài; và cũng có thể hiểu rằng người lính đã hi sinh một cách nhẹ nhàng, thanh thản như vừa coi như hoàn tất xong nhiệm vụ với Tổ quốc. Hiện thực khắc nghiệt của chiến tranh đã được Quang Dũng biểu hiện bằng cách nói thật lãng mạn. Qua đấy, nhà thơ làm hiện không phải chông gai mà là tinh thần vượt qua mọi khó khănđấy chính là vẻ đẹp hào hùng của những người chiến sĩ.

Sau câu thơ gợi lên hình ảnh người lính, sự hùng vĩ, hiểm trở của núi rừng miền Tây lại được hiện lên qua những nét vẽ đầy độc đáocách thức làm nhân hóa “thác gầm thét”, “cọp trêu người” đã làm tăng thêm sự dữ dội, hoang sơ, đầy bí hiểm của núi rừng miền Tây. Nghệ thuật tương phản, đối lập của cảm hứng lãng mạn đã được Quang Dũng sử dụng trong phép đối thanh rất tinh tế: nếu câu thơ trên với các tiếng “thác”, “thét” mang âm vực câu gợi âm thanh tiếng nước man dại ở vòm cao thăm thẳm thì câu dưới là những tiếng Hịch, cọp mang thanh trắc ở âm vực thấp như mô phỏng bước chân nặng nề của thú dữ, gợi sự thâm u, bí hiểm, đầy đe dọa của núi rừng. Chiều chiều, đêm đêm là những trạng ngữ chỉ dòng chảy của thời gian lặp lại miên viễn, vĩnh hằng. Những sức mạnh thiên nhiên khủng khiếp ngự trị ở núi rừng miền Tây không phải là một chiều, một đêm mà là chiều chiều, đêm đêm – ngự trị muôn đời. miêu tả những ấn tương về núi rừng miền Tây lại càng làm nổi bật chân dung người lính Tây Tiến hào hùng, mạnh mẽ: họ đã hành quân qua những vùng đất hoang sơ, dữ dội, vắng bóng con người ; họ đã vượt qua những gian truân vất vả bằng khí phách kiên cường và lòng dũng cảm đáng khâm phục, đáng ngợi ca.

thế nhưng, con đường hành quân của các chiến sĩ Tây Tiến không chỉ có gian khó, vất vả mà còn có cả những kỉ niệm ngọt ngào, thắm thiết ân tình:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Hai câu thơ đã làm hiện lên không gian miền Tây Bắc vô cùng nên thơ với những bản làng quện trong khói lam chiều yên bình bên sườn núi , với hương thơm quyến rũ của xôi nếp nương, với những sơn nữ tình tứ và xinh đẹp. Cụm từ cảm thán “Nhớ ôi” đứng ở đầu câu đã thể hiện tình cảm nhớ nhung, dâng trào mãnh liệt về miền Tây, về những bản làng Mai Châu, về những chị, những em ,… trong mùa lúa chín. Sau những chặng đường hành quân giữa mưa rừng buốt lạnh, giữa núi cao, vực sâu, giữa những bước chân thú dữ rập rình đe dọa, phút dừng chân bên một bản làng miền Tây với bát cơm thơm ngào ngạt làn khói bếp đã Đem lại cho các anh cảm giác thanh bình thật hiếm hoi, quý giá trong cuộc tranh đấu tranh tàn khốc. Câu thơ “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” mang đến cho ta nhiều cách hiểu. có thể hiểu các chiến sĩ dừng chân ở Mai Châu giữa mùa lúa chín, đón nhận bát xôi ngào ngạt hương nếp đầu mùa từ bàn tay dịu dàng của các cô gái Mai Châu. Cũng có thể hiểu câu thơ theo một nét nghĩa thật lãng mạn qua hai chữ “mùa em”. đây chính là một tích hợp từ rất mới mẻ, người ta thường nói mùa hoa, mùa quả,… để chỉ thời điểm sung mãn, đầy ắp sắc hương của hoa trái. Cách sử dụng từ của Quang Dũng đã làm ra một nét nghĩa táo bạo và thật đa tình làm cho Mai Châu không những là một địa danh luôn đi chung với kỉ niệm thơm thảo của xôi nếp đầu mùa thắm tình quân dân mà còn gợi tới hình ảnh của những cô gái Mai Châu duyên dáng, đẹp đẽ, căng tràn sức sống làm xao xuyến lòng người chiến sĩ. Câu thơ nhiều thanh bằng gợi tả cảm xúc bồng bềnh, xao xuyến, ngất ngây trong tâm hồn của những đối phương trai Hà Thành hào hoa, lãng mạn.

sự kết hợp hài hoà giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn; ngôn ngữ giàu tính tạo hình, giàu nhạc điệu,biện pháp tu từ đặc sắc, … đã làm nên thành công cho cả đoạn thơ – tuy chỉ là khúc dạo đầu của một bản nhạc về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc . Trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật sống động, hào hùng. Thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, chúng ta mạnh mẽlãng mạn, hào hoa. Sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và chúng ta nơi ấy là biểu hiện của tấm lòng gắn bó với quê hương, quốc giacùng lúc đó là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.

Mười bốn câu thơ mở đầu cho một nỗi nhớ trải dài, mênh mang, bất tận. Lặn sâu mình vào trong nỗi nhớ ấy, người ta thấy yêu một khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội của đất nước, thấy cảm phục, biết ơn một thế hệ anh hùng một thời đã bỏ xót thân mình vì Tổ quốc thân yêu. Chất thơ mộng và hiện thực, chất thơ và chất nhạc vốn là đặc trưng của hồn thơ Quang Dũng đã được thể hiện thật hay, thật giàu sức hút. Có lẽ nhờ vào điều đó mà “Tây Tiến” của Quang Dũng chưa bao giờ mất đi vị trí cần thiết trong lòng độc giả nhiều thế hệ.

Bài mẫu phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến đầy đủ nhất

Mở bài:

Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, tuy nhiên qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm “Tây Tiến” đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồng gió mới. bằng việc đo đạt 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương tuy nhiên đầy thơ mộng của những người lính tri thức bấy giờ.

  • Khái quát tác giả, tác phẩm

Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết tới là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ bởi vậy cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi vậy mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, thơ mộng và tài hoa.

đo đạt 14 câu đầu bài thơ Tây tiến dể thấy Tây Tiến là một doanh nghiệp quân đội thành lập năm 1947, là là thời gian đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến, phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Họ lên đường với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. trong lúc chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng đã nhớ về Tây Tiến và sáng tác nên bài thơ này. Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” năm 1986. Ban đầu, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó được đổi thành “Tây Tiến”. Việc bỏ từ “nhớ” đã giúp cho tâm tư, tình cảm của Quang Dũng trở nên kín đáo hơn.

  • Luận điểm 1: Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến

mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc hoạ lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là không gian ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh “Sông Mã”, “Tây Tiến” giờ đây đều như biến thành những người thân thương ruột thịt. Mà với địa điểm đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương của mình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chới với, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy, vừa nhẹ nhàng, lại vừa mạnh mẽ đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. đó là những kỷ niệm chưa bao giờ quên trong suốt cuộc đời, và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác trong lòng thi sĩ Quang Dũng.

  • Luận điểm 2: Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính

Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, khung cảnh hiện lên đầy chất thơ:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.

Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”

“Sài Khao”, “Mường Lát” đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả với hình ảnh “sông Mã” ở đầu. tuy vậy đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh “đoàn quân mỏi” sau chặng đường dài. Cùng với sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ “hoa về” thay vì “hoa nở”, “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Cách kết hợp từ này gợi tả khung cảnh đầy trữ tình, huyền ảo, sống động như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp khung cảnh rộng lớn. Mỗi nơi mà nơi bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đáng chú ý, khiến chúng biến thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng trọn đời không quên.

kế đến những vẫn thơ trữ tình, Quang Dũng lại dùng các câu thơ mạnh hơn, gợi tả lên sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Qua đó cho ta biết sự vất vả, khó khăn và những nỗ lực kiên cường của người lính khi hành quân chiến đấu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời.”

dùng câu thơ toàn thanh trắc, tác giả đã gợi ra một địa hình vô cùng hiểm trở. Cùng với các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, cái vất vả, khổ cực lại càng được nhân lên. tuy nhiên vượt lên cái chông gai ấy, người lính vẫn luôn mang một tâm hồn lãng mạn. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” hiện lên vô cùng thú vị. Nó đã thể hiện một tâm hồn thơ mộng, hồn nhiên và rất đỗi hài hước của người lính chiến trong trường hợp chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn.

Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại gợi ra vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị thơ mộng giữa núi rừng hoang vu. sử dụng thanh bằng cùng hình ảnh “mưa xa khơi”, Quang Dũng gợi tả lên sự bình yên, yên bìnhđây chính là chốn dừng chân cho người lính sau những ngày hành quân vất vả, khổ cực.

  • Luận điểm 3: Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân

Sau những vần thơ tả cảnh, Quang Dũng viết lên những câu thơ đặc tả người lính, ám ảnh và khắc sâu vào tâm trí độc giả:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ lãng quên đời.”

Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã phơi bày được cái khắc nghiệt của chiến tranh, và cũng trân trọng sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Họ đã ra đi, trong kiểu dáng hiên ngang, oai hùng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Chỉ là “bỏ bỏ xót đời” thôi, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, “không bước nữa”, chứ không hề nuối tiếc điều gì. Họ đã chiến đấu và hi sinh trong kiểu dáng ngẩng cao của nòng súng, rồi trở về với đất Mẹ thiêng liêng lại rất đỗi bình thản.

Chứng kiến những người đồng đội chiến đấu, rồi ngã xuống, Quang Dũng không khỏi xót xa. Ông thương cảm tuy nhiên cũng khâm phục tinh thần hi sinh của những con người dũng cảm ấy:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”

Câu thơ đặc tả vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ và các động từ mạnh “gầm”, “trêu”,… đã làm nổi bật sự nguy hiểm tột độ. đó là cái nguy hiểm luôn rình rập địa điểm rừng thiêng nước độc của ác thú, của thiên nhiên với thác xối, núi nhọn. Để rồi cuối cùng, nhà thơ như bừng tỉnh khỏi những kỉ niệm của mình. Những hồi ức đó, ngỡ như đang được sống lại, thì vỡ vụn với nỗi nhớ da diết, nồng nàn “cơm lên khói” “thơm nếp xôi”. Tình quân dân tha thiết, ấm nồng với hương lửa, nắm xôi, những ngày còn chiến đấu cứ ám ảnh mãi không thôi. Sau tất cảchúng ta và tình cảm quân dân luôn là nỗi nhớ đọng lại nơi người lính, là chút nương tựa của tâm hồn họ mỗi khi mỏi mệt, gian nan.

Chỉ với 14 câu thơ, Quang Dũng đã khắc hoạ được thiên nhiên Tây Bắc với rất đầy đủ sắc thái không giống nhau. Từ đó làm rõ nét hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ chuẩn bị và sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù chông gai, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt.

Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng ngắn gọn nhất 2023

Mở bài

Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, vẽ tranh, viết văn, soạn nhạc tuy nhiên thành công đặc biệt là thơ. Ông là nhà thơ nổi tiếng của văn học nước ta thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp với một hồn thơ thơ mộng, tài hoa, thơ giàu chất nhạc, chất họa, được mệnh danh là nhà thơ của “Xứ Đoài mây trắng” với những tác phẩm nổi tiếng như: ” Mây đầu ô”, “Thơ văn Quang Dũng”…Trong đấy tiêu biểu là bài thơ “Tây Tiến”.

Bài thơ không chỉ là nỗi nhớ của Quang Dũng về đoàn quân Tây Tiến mà còn khắc họa rõ nét cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến và khung cảnh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội qua đoạn thơ:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

Bài thơ “Tây Tiến” ra đời trong hoàn cảnh đặc biệt. Tây Tiến là một doanh nghiệp quân đội được thành lập đầu năm 1947, có trách nhiệm phối hợp với bộ đội Lào, bảo vệ biên giới Việt -Lào, cùng lúc đó đánh tiêu hao lực lượng địch.

Chiến sĩ Tây Tiến phần đông là thanh niên, học sinh, trí thức Hà Nội, chiến đấu trong những trường hợp gian khổ tuy nhiên họ sống rất lạc quan và chiến đấu rất dũng cảm.Quang Dũng là đại đội trưởng ở cơ quan Tây Tiến, cuối năm 1948 khi rời đơn vị cũ chưa bao lâu, tại Phù Lưu Chanh, Quang Dũng viết bài thơ Nhớ Tây Tiến. Khi in lại, tác giả đổi tên bài thơ là “Tây Tiến”.

mở bài bài thơ bằng những dòng thơ chan chưa nỗi nhớ, lời thơ như chợt thốt lên đầy nhớ nhung và tiếc nuối:

“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”

Dòng sông Mã như là điểm gợi để nhà thơ nhớ về đoàn quân Tây Tiến, với lời gọi tha thiết ngọt ngào. Nhà thơ đã rất tài tình khi dùng từ láy “chơi vơi” liên kết với hiệp vần “ơi” mở ra một môi trường vời vợi của nỗi nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình, cứ lâng lâng khó tả trong lòng người ra đi nhưng cảm giác rất chân thực của một người đồng đội đã rời xa cơ quan để rồi nỗi nhớ như choán đầy cả khung cảnh “Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi”.

Câu thơ có bảy từ thì có hai từ “nhớ”. Điệp từ “nhớ” như tô đậm cảm xúc toàn bài thơ, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là ” Nhớ Tây Tiến”. Để rồi nỗi nhớ ấy cứ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình, tất cả trở thành kỉ niệm không bao giờ quên.

Xem Thêm  Tổng hợp 1111+ Phân tích Đây thôn Vĩ Dạ hay đạt điểm cao 2023

Không phải khi đến với “Tây Tiến” người đọc mới cảm nhận được nỗi nhớ mà ngay ở trong thơ ca đất nước ta khi nói về nỗi nhớ cũng đã từng diễn tả:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Vậy nhưng đến với Quang Dũng nỗi nhớ thông minh hơn cả với nỗi nhớ “chơi vơi” là trạng thái trơ trọi giữa khoảng không, không thể bấu víu vào đâu, một mình với hoài niệm cứ lửng lơ, sâu lắng, bâng khuâng, tha thiết vọng vào lòng người coi không thể nào bỏ xót. Nỗi nhớ bao trùm cả khoảng không gian và thời gian ấy Quang Dũng đã đưa người đọc đến với thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội tuy nhiên cũng thật êm đềm thơ mộng.

đấy là những địa danh mà đoàn quân Tây Tiến đã đi qua, “Sài Khao”, “Mường Lát”, “Pha Luông”, “Mường Hịch”, “Mai Châu”. Những địa danh khi đi vào thơ Quang Dũng nó biến mất mang màu sắc trung tính, vô hồn trên bản đồ nữa mà gợi tả lên trong lòng người đọc không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.

không những vậy những con đường hành cũng đầy những hiểm nguy:

“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”

Những con đường hành quân gian nan vất vả, trên đỉnh Sài Khao sương dày “lấp” cả đoàn quân, Quang Dũng sử dụng chữ “mỏi” như tái hiện hình ảnh đoàn quân mệt rã rời tuy vậy họ vẫn đi trong ” sương lấp” thật hùng vĩ và tráng lệ. Đâu chỉ có thế, Mường Lát đêm về sương tỏa khắp không gian. Tác giả không nói “hoa nở” mà “hoa về” không nói sương mà là “đêm hơi” như càng nhấn mạnh vẻ đẹp tâm hồn thơ mộng, hào hoa của những người lính Hà Thành.

Con đường hành quân ấy còn vô cùng gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy giữa một bên là núi cao với một bên là vực sâu thăm thẳm:

“Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

khung cảnh được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương. Các từ láy giàu sức tạo hình khiến người đọc hình dung những con đường quanh co, dốc rồi lại dốc, những đỉnh đèo hoang vắng khuất vào mây trời.

Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ “Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống” hình thành một đường gấp khúc của dáng núi. Như vậy ba dòng thơ liên tiếp trong đoạn thơ đã dùng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn của những người lính Tây Tiến trên con đường hành quân.

nếu như ba câu thơ trên gợi lên một cảm giác gập nghềnh hiểm trở thì đến mới câu thơ tiếp theo như một phút lắng lòng của những người lính Tây Tiên bên những ngôi nhà nơi xóm núi như cánh buồm thấp thoáng trên mặt biển trong không gian bình yên và êm ả của mưa giăng đầy thung lũng thành ‘xa khơi”. Đọc câu thơ người coi thấy bình yên đến kì lạ, phải chăng những phút giây hiếm hoi ấy như tiếp thêm sức mạnh cho người lính chiến đấu tiếp với kẻ thù cũng như thiên nhiên khắc nghiệt nơi đây:

“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”

Quang Dũng nhớ đến âm thanh “gầm thét” của thác dữ, tiếng gầm gào của loài hổ dữ rình rập như mong muốn nuốt chửng người lính mỗi khi chiều đến, đêm về. Thời gian buổi chiều, về đêm lại càng nhấn mạnh thêm cảm giác hoang sơ của chốn “sơn lâm bóng cả cây già”. Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa, từ láy được nhà thơ dùng để tô đậm độc đáo về một vùng núi hoang vu dữ dội địa điểm thiên nhiên hoang dã đang ngự trị và chiếm vai trò chúa tể.

Chỉ bằng mấy dòng thơ đầu Quang Dũng đã tái hiện rất đầy đủ bức tranh của núi rừng miền Tây được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, thật tự tin, dữ dội tuy nhiên lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên miền Tây hùng vĩ mà đoàn quân Tây Tiến đi qua.

Đoạn thơ không những là nỗi nhớ về thiên nhiên miền Tây mà trung tâm của nỗi nhớ ấy còn là những người lính, những đồng đội cũ được Quang Dũng thể hiện bằng vẻ đẹp bi tráng trên chặng đường hành quân đầy khó khăn, nguy hiểm.

độc đáo trong lòng người đọc về người lính Tây Tiến có lẽ bởi vẻ đẹp lạc quan trong chặng đường hành quân gian khổ qua câu thơ đầy chất lính:

“Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

đấy là hình ảnh tếu táo, lạc quan trong gian khổ với vẻ đẹp hồn nhiên qua cách nói hóm hỉnh “súng ngửi trời”. nếu như viết “súng chạm trời”, nhà thơ sẽ chỉ tả được độ cao của đỉnh dốc mà khi đứng trên đó, mũi súng của người lính Tây Tiến như chạm cả vào nền trời. Còn ở đây, Quang Dũng đã gợi được “chất lính” trẻ trung, vẻ tươi mới, sức sống dạt dào trong tâm hồn của người lính Tây Tiến vốn xuất thân từ những thanh niên trí thức trẻ Hà Nội.

cùng lúc đó còn mang lại người đọc sự mới mẻ, hóm hỉnh đầy chất lính, mũi súng của người lính được nhân hóa thành hình ảnh “súng ngửi trời” tinh nghịch, đầy chất thơ, mang cảm hứng thơ mộng cùng lúc đó khẳng định chí khí quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao gợi cho người coi đến với câu thơ của Tố Hữu:

“Rất đẹp hình anh lúc ráng chiều
Bóng dài trên đỉnh dốc cheo leo
Núi không đè nổi vai vươn tới
Lá ngụy trang leo với gió đèo”

Và trên chặng đường hành quân ấy dù với cái nhìn lãng mạn, tinh nghịch thì người lính Tây Tiến không thể tránh được sự thật đã có những người đồng đội:

“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ lãng quên đời”

Khi đề cập về cuộc chiến tranh khốc liệt ấy. Tác giả thường không thể tránh né hiện thực của những mất mát đau thương trong cuộc chiến . Trong cuộc hành quân gian khổ đã có những người ngã xuống vì kiệt sức. Vì mũi súng của kẻ thù. nhưng Quang Dũng đã thể hiện cách nói giảm, nói tránh về cái chết vừa xót xa ,vừa ngạo nghễ “không bước nữa” để rồi “bỏ bỏ xót đời” như một sự bình tĩnh, thản nhiên đón nhận cái chết, xem cái chết nhẹ tựa lông hồng.

Nhớ những người đồng đội đã ngã xuống tuy nhiên không gợi cảm xúc bi luỵ. Hơn thế nỗi mất mát, niềm cảm thương được nói bằng giọng thơ ngang tàng, kiêu hãnh “Gục lên súng mũ lãng quên đời”.Đó là một kiểu dáng chết trong chiến đấu, trong sự hiên ngang, bất khuất.

Sau chặng đường hành quân đầy gian khổ, có những lúc đồng đội hi sinh, đoàn quân Tây Tiến đã có dịp dừng lại một bản làng-Mai Châu

“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”

“Nhớ ôi”là một từ cảm thán mang tình cảm dạt dào, tiếng lòng của những người lính Tây Tiến. Câu thơ đậm đà tình quân dân, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung giữa những người lính Tây Tiến và đồng bào Tây Bắc. Họ dừng chân địa điểm xóm núi sau chặng đường dài vất vả, họ quây quần trong niềm vui ấm áp, niềm hạnh phúc bên những nồi cơm còn thơm làn gạo mới.

Nhớ mùi thơm “nếp xôi” hương vị của núi rừng Tây Bắc, của tình người thân yêu da diết, đằm thắm, sự gắn kết tình nghĩa thủy chung, giữa những chúng ta miền Tây Bắc của Tổ quốc với bộ đội kháng chiến. Tình cảm ấy mãi mãi không thể phai mờ trong lòng những người lính Tây Tiến . Như Chế Lan Viên từng viết về tình quân dân ấy trong bài thơ “Tiếng hát con tàu”:

“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày vẫn chưa có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”

Qua đoạn thơ trên Quang Dũng không những thể hiện thành công nỗi nhớ về thiên nhiên và miền Tây hùng vĩ mà còn thành công với các cách thức làm nghệ thuật như cảm hứng lãng mạn, bi trán. sử dụng ngôn từ đặc sắc về địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt, kết hợp hài hòa chất nhạc và họa thơ.

Đoạn thơ mở đầu trong bài thơ “Tây Tiến” dù chỉ mới là khúc dạo đầu của một bản tình ca về nỗi nhớ, song cũng đã kịp ghi lại những vẻ đẹp rất riêng của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc trên nền của bức tranh thiên nhiên dữ dội ấy, những người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp. cùng lúc đó thể hiện sự gắn bó của nhà thơ với thiên nhiên và chúng ta địa điểm ấy là biểu hiện của một tấm lòng gắn bó với quê hương, quốc giađồng thời là tấm lòng trĩu nặng yêu thương với những người đồng đội, đồng chí của mình.

Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến hay nhất

Tây Tiến là một trong những bài thơ hay, tiêu biểu của Quang Dũng. Là người lính trẻ hào hoa, lãng mạn ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, sống và chiến đấu nơi núi rừng gian khổ nhưng chất thi sĩ vẫn trào dâng mãnh liệt trong lòng. Tám câu thơ đầu tiên là tiếng lòng bồi hồi, xúc động khi nỗi nhớ về Tây Tiến dâng trào trong kí ức của nhà thơ.

Ngay hai câu thơ đầu của tác phẩm, Quang Dũng đã gợi ra một nỗi nhớ da diết, thương yêu dành cho sông Mã, cho miền Tây, cho núi rừng một thời thân thuộc:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” nghe sao thân quen, tha thiết mà quặn lòng đến vậy! Từ “ơi” bắt vần với từ láy “chơi vơi” đã giúp tác giả tạo ra âm hưởng sâu lắng, thầm thể hiện nỗi bồi hồi nhớ mong đang ngập tràn trong tâm hồn, trái tim người lính xưa.

Điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai như thu trọn lại để biểu lộ tâm trạng, cảm xúc rõ nét nhất của người lính Tây Tiến khi nghĩ về sông Mã, miền rừng núi một thời gắn bó và cả đoàn quân với biết bao kỉ niệm. Đến với hai câu thơ tiếp theo, nhà thơ nhắc đến một loạt các địa danh, bản làng như để nhắc nhớ đến nhiều kỉ niệm:

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi

Đó là kỉ niệm về những cuộc hành quân gian nan, thử thách qua các bản, các mường xa xôi, hoang dã, thử thách ý chí, tinh thần người lính Tây Tiến.

Những câu thơ tiếp theo đã phác họa ra trước mắt người đọc khung cảnh một bức tranh núi rừng hùng vĩ, hoang sơ và hình ảnh người lính hào hùng, mạnh mẽ:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi

Điệp từ “dốc” trong câu thơ đã gợi ra rõ nét nhất sự hùng vĩ của thiên nhiên. Các thanh trắc trong đoạn thơ đi cùng những từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm” mà Quang Dũng tinh tế lựa chọn đã gợi ra sự gập ghềnh, gian truân người lính Tây Tiến phải vượt qua trên đường hành quân.

Một từ “heo hút” được nhà thơ đưa lên đặt đầu câu thơ đã tái hiện chân thực một khung cảnh đầy xa xôi, hẻo lánh, quạnh hiu của thiên nhiên núi rừng nơi đây. Cụm từ “súng ngửi trời”, một cách đầy tinh tế, đã giúp nhà thơ thể hiện được tinh thần lạc quan của người lính, dẫu có bao gian lao, thử thách, họ vẫn hiên ngang, chủ động, sẵn sàng vượt qua và giữ mãi tinh thần lạc quan, yêu đời.

Điệp từ “ngàn thước” kết hợp cùng phép đối lập “lên – xuống”, “cao – thấp” đã góp phần giúp cho bài thơ của Quang Dũng giàu chất họa hơn, người đọc thơ nhờ vậy “không chỉ ngậm nhạc mà còn thưởng tranh”.

Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa sa khơi” mang nhiều thanh bằng đã tạo nên sự mềm mại cho câu thơ, đồng thời gợi ra một tâm trạng bâng khuâng, tha thiết, nhẹ nhàng và một tâm hồn rất đỗi thanh thản, thảnh thơi. Nếu như mưa trong thơ xưa thường gợi ra cái lạnh và lòng buồn thì ở thơ Quang Dũng, mưa không lạnh lẽo thê lương mà êm đềm, thơ mộng và bình yên đến lạ.

Trên nền cảnh thiên nhiên núi rừng hùng vĩ ấy, hình ảnh người lính Tây Tiến hiện lên thật đẹp với sự hi sinh bi tráng, cao cả:

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Cách nói “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/ Gục lên súng mũ bỏ quên đời” là một cách nói giảm nói tránh làm giảm đi nhiều sự đau thương, mất mát – một sự thực buồn mà bất kì một người lính nào cũng có thể phải đối mặt trên đường hành quân gian khổ.

Hai câu thơ: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói/ Mai Châu mùa em thơm nếp xôi” gợi liên tưởng về Mai Châu với hình ảnh khói cơm nếp, hình ảnh những con người Tây Bắc chân chất, hiền hậu – những tấm lòng thơm thảo chở che, chia sẻ khó khăn với người lính.

“Tây Tiến” là 1 bài thơ hay được viết nên bởi tâm hồn , tài hoa, lãng mạn của người lính trí thức tiểu tư sản Quang Dũng. Bài thơ như 1 bức tượng đài bất tử đã tạc vào nền văn học Việt Nam hình ảnh những người lính trí thức yêu nước vô danh. Bài thơ xứng đáng được xem là kiệt tác của Quang Dũng khi viết về người lính trí thức tiểu tư sản hào hoa, phong nhã.

Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến

Dưới đây là cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến – một tác phẩm kinh điển của Văn học cấp 3:

Tây Tiến bài thơ được viết trong giai đoạn nước nhà căng mình để chiến đấu chống thực dân Pháp. Bài thơ giúp người đọc cảm nhận được tình đồng đội trong thời chiến, nhớ binh đoàn hùng mạnh Tây Tiến đặc biệt là trong đoạn đầu tiên. Nỗi nhớ của tác giả về thiên nhiên:

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi.
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi,
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.

Nhớ về con sông Mã thân thương, rừng núi bạt ngàn. Tình cảm nhớ nhung ở đây khó có thể diễn đạt, lâng lâng đó là nỗi nhớ “chơi vơi”, hai từ nhớ liên tiếp lặp lại thể hiện cảm xúc trong đoạn đầu tiên đó là sự hoài niệm, cảm xúc nhớ thương da diết với con sông Mã và thiên nhiên miền Tây.

Tiếp tục trong 2 câu thơ tiếp theo là các địa danh binh đoàn từng ghé thăm đó là Sài Khao, Mường Lát. Những chiến sĩ phải vượt qua muôn vàn khó khăn hiểm trở trên đường hành quân, những địa danh nghe xa lạ như nói lên sự hiểm trở, khó nhọc, đi đến nơi cũng là khi “đoàn quân mỏi”, sự mệt nhọc nhưng vẫn phải hành quân trong điều kiện khắc nghiệt của thời tiết “sương lấp”. Đâu đó có những hình ảnh hoa trong đêm nói lên sự lãng mạn của những người lính.

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Hành trình của những người lính chẳng khác gì chuyến đi sinh tử, với địa hình vô cùng khắc nghiệt. Những dốc lên như dựng đứng, còn dốc xuống heo hút tựa như vực thẳm, chỉ những sai sót có thể trả giá bằng tính mạng. Khó khăn thử thách là như thế nhưng người lính luôn quyết tâm, hình ảnh “súng ngửi trời” thể hiện đầy sự lãng mạn, yêu đời của những binh đoàn Tây Tiến.

Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Trong những cuộc hành quân đó tác giả đã chứng kiến nhiều người kiệt sức đến nỗi “không bước nữa”, thực tế khắc nghiệt của chiến tranh đã có rất nhiều các chiến sĩ mãi mãi nằm lại trên con đường hành quân, hành trang của họ vẫn còn đó là “súng”, “mũ”, các chiến sĩ nằm lại nhưng vẫn bị tráng và trong tư thế người chiến sĩ.

Tác giả nhớ về họ như những người anh hùng và không quên cảm phục tinh thần của những người lính cụ Hồ, cuộc đời dành cả tuổi thanh xuân tươi đẹp để cống hiến cho độc lập của đất nước, dân tộc.

Trong hai câu thơ cuối của đoạn 1 tác giả thể hiện cảm xúc tình cảm dạt dào với địa danh nổi tiếng Mai Châu:

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

Dừng quân nghỉ ngơi sau quãng đường hành quân mệt mỏi, khó nhọc. Những chiến sĩ Tây Tiến và bà con Tây Bắc như trở thành một nhà, quây quần cùng nhau bên nồi cơm đang lên khói. Nhớ ôi! là từ cảm thán thể hiện nỗi nhớ tha thiết, mãnh liệt. Những hình ảnh cơm lên khói, thơm nếp xôi là những hương vị đặc biệt của Tây Bắc thể hiện tình cảm khăng khít, thủy chung với đồng bào nơi đây đối với cách mạng. Chắc chắn những kỉ niệm trên sẽ không thể phai nhòa trong tâm trí những người chiến sĩ Tây Tiến.

Đoạn 1 chỉ vỏn vẹn 14 câu nhưng đã giúp người đọc hiểu hơn thiên nhiên và con người Tây Bắc, trên nền thiên nhiên những người lính Tây Tiến hiện lên thật oai hùng, bi tráng. Đồng thời thể hiện sự gắn bó với thiên nhiên và con người Tây Bắc đó cũng chính là tấm lòng yêu đất nước của tác giả.

Tổng kết

Thông qua bài viết trên đây của trang web vanhoc.edu.vn, hy vọng bạn đọc đã có thể biết được dàn ý cũng như các bài văn mẫu phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến. Tiếp tục theo dõi những bài viết khác của chúng tôi để biết thêm nhiều thông tin kiến thức bổ ích khác nhé.

Similar Posts