Mẫu Thuyết minh Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

Thuyết minh Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ không chỉ giúp các bạn hiểu rõ hơn về hoàn cảnh sáng tác, nội dung đoạn trích, đặc sắc về nghệ thuật mà còn giúp học sinh lớp 10 rèn luyện kĩ năng viết văn thuyết minh về một tác phẩm văn học. Đồng thời có thêm nhiều hiểu biết để biết cách phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay. Hôm nay hãy cùng văn học cấp 3 phân tích bài văn sau đây nhé!

 Dàn ý Thuyết minh Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ

1. Mở bài

Trong đoạn trích này, ta sẽ được giới thiệu về một tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao của tác giả Đặng Trần Côn, được dịch ra chữ Nôm bởi Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích. Tác phẩm này được viết theo thể trường đoản cú với tổng cộng 476 câu thơ.

2. Thân bài:

a. Tác giả, dịch giả:

– Tác giả của tác phẩm là Đặng Trần Côn.
– Bản dịch ra chữ Nôm được thực hiện bởi Đoàn Thị Điểm và Phan Huy Ích.

b. Tác phẩm:

* Thể loại:

– Tác phẩm nguyên gốc viết theo thể trường đoản cú và gồm tổng cộng 476 câu thơ.
– Bản dịch ra chữ Nôm được diễn tả dưới thể ngâm khúc, kết hợp với thể thơ song thất lục bát.

* Hoàn cảnh sáng tác:

– Tác phẩm “Chinh phụ ngâm” được sáng tác trong giai đoạn đầu của triều đại vua Lê Hiển Tông, khi kinh đô Thăng Long đang đối mặt với nhiều cuộc khởi nghĩa của nông dân. Cuộc sống này đã khiến nhiều thanh niên trẻ phải gia nhập quân ngũ, để lại phía sau người vợ và con cái trong cô đơn và nhớ thương không nguôi.

* Nội dung:

– Tác phẩm thể hiện sự oán giận trước chiến tranh phi nghĩa.
– Diễn tả tâm trạng và mong muốn của người chinh phụ về tình yêu và hạnh phúc gia đình, là một khía cạnh mới trong văn học nhân đạo thế kỷ XVIII.

c. Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:

* Vị trí:

– Đoạn trích nằm từ câu thứ 193 đến câu thứ 216 trong bản diễn Nôm.

* Bố cục bốn phần:

1. Phần đầu từ “Dạo hiên vắng…bóng người khá thương” diễn tả nỗi lo lắng và nhớ mong của người chinh phụ.
2. Phần tiếp theo từ “…tựa miền biển xa” diễn tả sự chờ đợi mòn mỏi và tê tái của chinh phụ.
3. Phần tiếp theo từ “Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng” là sự gắng gượng thoát khỏi cảm giác cô đơn tột cùng của người chinh phụ.
4. Phần còn lại của đoạn trích là niềm hy vọng và tình yêu thương của người chinh phụ gửi đến chồng.

* Mạch cảm xúc:

– Các phần của đoạn trích miêu tả và thể hiện tâm trạng và cảm xúc của người chinh phụ, từ nỗi chờ đợi khao khát, cô đơn lẻ loi đến sự gắng gượng và hy vọng.

* Đặc sắc nghệ thuật:

– Tác giả thành công trong việc diễn tả và lộ ra tâm trạng của nhân vật thông qua hành động và hình ảnh mô tả.
– Sử dụng thành công thể thơ song thất lục bát với âm điệu nhạc sẽ và từ láy biểu cảm sắc nét, thể hiện một cách đặc biệt thế giới tâm hồn của nhân vật.

3. Kết bài:

Tóm tắt nội dung và nhấn mạnh tác phẩm này là một tác phẩm văn học đáng chú ý với nhiều giá trị nghệ thuật.

TOP 14 bài Phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay nhất

Bài Văn Thuyết Minh Về Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ mẫu 1

Tình Cảnh Lẻ Loi Của Người Chinh Phụ

Người chinh phụ, trong bối cảnh đời sống xã hội phức tạp và những biến cố lịch sử, thường bị lãng quên, lẻ loi trong cuộc sống. Bài văn thuyết minh này sẽ đi sâu vào tình cảnh của họ – những người vợ, mẹ, con gái, phụ nữ thấp hèn trong tình trạng cô đơn, vắng vẻ và hoang dại.

Người chinh phụ, những người đã dâng hiến cuộc đời, tâm hồn và thời gian để xây dựng mái ấm, nuôi dưỡng gia đình. Họ dành trọn tình yêu và sự hy sinh, nhưng lại thường xuyên bị coi thường và bỏ quên. Trong cuộc sống bận rộn và áp lực, họ luôn chịu đựng nỗi cô đơn, khi phải đối mặt với những khó khăn và lo lắng một mình. Những giọt nước mắt ẩn sau nụ cười, những đêm dài nhớ nhung và tương tư là những cảm xúc chẳng ai biết đến.

Nhìn vào cuộc sống của họ, chúng ta thấy sự lẻ loi không chỉ nằm ở tình thương và quan tâm xã hội, mà còn tại cuộc sống vật chất. Nhiều người chinh phụ không có cơ hội học hành, phát triển nghệ thuật, hay thể hiện bản thân trong xã hội. Họ chịu đựng những vất vả vất vả và áp lực cuộc sống một cách im lặng, không ai biết rằng họ đang phải đối mặt với bao điều khó khăn và áp lực của cuộc sống.

Một phần lẻ loi của người chinh phụ là do họ thường không được công nhận và đánh giá đúng mức. Công việc nội trợ và chăm sóc gia đình không được đánh giá cao như công việc ngoài xã hội. Họ là những người nắm giữ những giá trị truyền thống, nhưng lại chẳng ai quan tâm đến những giá trị ấy.

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cũng thể hiện qua cuộc sống tình dục. Trong một xã hội vẫn còn nhiều bất công và phân biệt giới tính, người chinh phụ thường bị đối xử bất công và thậm chí bị lạm dụng. Nhiều người phụ nữ phải đối mặt với sự bóc lột, tàn ác, và không thể tìm thấy tình yêu và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống.

Xem Thêm  10 mẫu tóm tắt vợ chồng a phủ hay, ngắn gọn- Ngữ văn 12

Tuy nhiên, dù có bao nhiêu khó khăn và tổn thương, người chinh phụ vẫn luôn bước đi với nụ cười và lòng tự hào. Họ không gục ngã trước khó khăn, mà vẫn kiên định bước đi trên con đường mà cuộc đời đã chọn cho họ. Tình cảnh lẻ loi của họ đã trở thành nguồn cảm hứng để vươn lên, khẳng định bản thân và tìm thấy niềm hạnh phúc trong những giây phút giản đơn nhất.

Người chinh phụ xứng đáng được trân trọng và quý trọng. Bằng tình yêu và đồng cảm, chúng ta có thể chia sẻ những gánh nặng và chia sẻ niềm vui cùng họ. Chúng ta hãy dành thời gian lắng nghe những câu chuyện, chia sẻ và đồng cảm với những người chinh phụ xung quanh chúng ta.

Thuyết minh Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ mẫu 2

Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ trích trong bài Chinh phụ ngâm, nguyên tác chữ Hán là của tác giả Đặng Trần Côn, về dịch giả thì có nhiều khái niệm bàn cãi tuy nhiên đến nay người ta đã thống nhất cho rằng đó là Đoàn Thị Điểm. Nó là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc nhất của thế kỷ XVIII, cùng mang một nội dung nhân đạo mới mẻ đấy là không những đồng cảm thương xót với số phận bất hạnh của con người mà còn hướng đến thể hiện sự trân trọng ngợi ca trước khát vọng hạnh phúc chính đáng của chúng taquan trọng nhất là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến có nhiều bất công.

Về tác giả, Đặng Trần Côn có thể được coi là một trong những tác giả bí ẩn nhất của nền văn học nước ta, những tài liệu và thông tin về ông cực kỳ ít và dường như không có ghi nhận gì đáng kể. Chỉ biết rằng, Đặng Trần Côn sống vào khoảng nửa đầu thế kỷ XVIII, quê ở làng Nhân Mục, thuộc huyện Thanh Trì (nay là Thanh Xuân, Hà Nội). Tương truyền ông là người sáng tạo hiếu học, đã từng thi đỗ Hương Cống. Sự nghiệp sáng tác ngoài Chinh Phụ Ngâm là tác phẩm nổi tiếng, xuất sắc nhất thì còn có các tác phẩm thơ phú bằng chữ Hán như Tiêu Tương bát cảnh, Tùng bách thuyết thoại, Bích câu kỳ ngộ,…

Dàn ý tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ chi tiết cùng bài văn mẫu

Về dịch giả, thì Chinh Phụ ngâm có tổng cộng bốn bản dịch của các tác giả khác nhau trong đó bản dịch được khắc in vào thời điểm hiện tại là bản dịch được lưu truyền rộng lớn và phổ biến nhất. Và đến nay người ta vẫn còn nhiều bàn cãi về việc bản dịch hiện hành này là của Đoàn Thị điểm hay Phan Huy Ích. đề cập về Đoàn Thị Điểm, bà được đánh giá là người phụ nữ có sắc đẹp và tài văn ưu tú nhất trong số các nữ sĩ thời trung đại. Bà sinh năm 1705, mất năm 1748, hiệu là Hồng Hà nữ sĩ, quê quán ở Văn Giang, nay thuộc tỉnh Hưng Yên, là người nổi tiếng thông minh và đẹp đẽmặc dù vậy đường tình duyên của bà lại khá lận đận, thu thập chồng muộn vào tuổi 37, chồng là tiến sĩ Nguyễn Kiều, và ngay sau cưới chồng lại phải đi sứ xa, có thể điều đấy khiến Đoàn Thị Điểm rất sầu muộn và có mối đồng cảm sâu sắc với người chinh phụ trong bài Chinh phụ ngâm, nên đã tiến hành dịch bài thơ này. Về giả thuyết dịch giả là Phan Huy Ích, thì ông sinh vào năm 1750 và mất năm 1822, tự là Dự An, quê gốc ở Hà Tĩnh, sau đó chuyển sang sinh sống ở Quốc Oai, nay thuộc Hà nội, đỗ tiến sĩ năm 26 tuổi.

Tác phẩm Chinh phụ ngâm, nguyên tác được viết theo thể trường đoản cú, gồm có tổng thể 476 câu thơ dài ngắn không đều nhau. Bản dịch chữ Nôm được dịch giả sử dụng thể ngâm khúc, thường diễn đạt những tâm tư, tình cảm của chúng ta với những lời than vãn, ai oán, đau khổ. Kết hợp với thể thơ song thất lục bát của dân tộc, gồm hai câu 7 chữ, một câu 6 chữ, một câu 8 chữ, khiến cho bài thơ thêm giàu nhạc điệu, uyển chuyển, đậm đà bản sắc dân tộc.

Chinh phụ ngâm được sáng tác vào đời đầu của vua Lê Hiển Tông, trong thực trạng có nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân liên tục xảy ra xung quanh kinh thành Thăng Long, dẫn tới triều đình phải cất quân đánh dẹp. Nhiều thanh niên trai tráng lần lượt phải lên đường tòng quân, bỏ lại vợ dại, con thơ ở nhà trong nỗi sầu muộn, thương nhớ mòn mỏi. Cảm động và thấu hiểu trước tình cảnh của những người vợ lính xa nhà, Đặng Trần Côn đã sáng tác ra bài thơ Chinh phụ ngâm để bày tỏ sự đồng cảmsẻ chia với trường hợp của những người phụ nữ này. thông tin chính của tác phẩm trọng điểm năm ở hai điểm thứ nhất là sự oán ghét chiến tranh phi nghĩa, thông tin thứ hai đóng vai trò đề tài ấy là diễn tả tâm trạng khao khát tình yêu và hạnh phúc lứa đôi của con người, là nét mới trong cảm hứng nhân đạo văn học thế kỷ XVIII.

Đoạn trích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nằm từ câu thứ 193 đến câu 216 của bản diễn Nôm. Bố cục đoạn trích sẽ được chia làm ba phần, phần đầu từ “Dạo hiên vắng…bóng người khá thương” diễn đạt nỗi bồn chồn, ngóng trông của người chinh phụ, phần thứ 2 kế đến đến “…tựa miền biển xa”, cảm xúc về thời gian mong đợi mòn mỏi của chinh phụ, phần thứ ba tiếp theo đến “Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng” là sự gắng gượng để thoát khỏi nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ, phần còn lại của đoạn trích là niềm mơ ước được gởi tấm lòng thương nhớ đến chồng của người chinh phụ. Như vậy ta có thẻ tổng kết được rằng chủ đề chính của đoạn trích chính là những cung bậc cảm giác cô đơn khác nhau của người chinh phụ luôn có khao khát được sống cuộc sống hạnh phúc, yên ấm bên chồng con. Và điều ấy được thể hiện một cách uyển chuyển qua từng phần của đoạn trích.

Xem Thêm  Top 10 mẫu tóm tắt Người lái đò sông đà hay, ngắn gọn nhất

Trong đoạn đầu:

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen
Ngoài rèm thước chẳng mách tin
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng
Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi
Buồn rầu chẳng nói nên lời
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”

thế giới tâm trạng của người chinh phụ thể hiện qua những hành động lặp đi lặp lại, hết đi qua đi lại bên hiên vắng với bước chân nặng nề, chán nản, thì lại chuyển sang ngồi xuống ngẩn ngơ bên rèm, bộc lộ sự thấp thỏm bất an, bồi hồi trong lòng của người chinh phụ. Chán đứng, chán ngồi, người chinh phụ lại hết buông rèm, rồi lại vén rèm lên, hết ngóng ra ngoài lại thẫn thờ quay vào nhìn chăm chăm vào ngọn đèn mờ, điều đó thể hiện sự chờ mong khắc khoải, bồn chồn và nỗi cô đơn trống vắng đến tội nghiệp của người chinh phụ. không chỉ diễn tả tâm trạng của nhân vật trữ tình bằng những hành động vô thức lặp lại mà Đặng Trần Côn còn diễn tả thông qua ngoại cảnh xung quanh, trong đó hình ảnh ngọn đèn vô tri vô giác lại biến thành người bạn độc nhất để người chinh phụ sẻ chia nỗi buồn rầu bi thiết của mình. nhưng chính vì ngọn đèn là vô tri vô giác, nên bộc lộ tâm tư chỉ ở một phía người chinh phụ, còn ngọn đèn chong ấy thì trọn đời không thể vỗ về, an ủi người chinh phụ, dẫn tới sự cô đơn càng trở nên làm rõ ràng hơn cả.

Đoạn tiếp theo:

“Gà eo óc gáy sương năm trống
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên
Khắc giờ đằng đẵng như niên
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa”

Tiếng gà “eo óc” là một từ láy tượng thanh rất hay diễn tả thật đạt cái cảnh vắng vẻ quạnh quẽ sớm hôm đầy thê lương, chèn vào đấy cành hòe phất phơ yếu đuối lại càng có giá trị tương hỗ diễn tả cái cảnh triền miên, khắc khoải của chinh phụ trong cô đơn lẻ loi. làm nổi bật cảnh tượng cô đơn một bóng, người chinh phụ lại càng thấm thía hơn bao giờ hết cảnh thời gian trôi qua một cách chậm rãi, vô vị, cùng với mối sầu khổ trải dài mênh mông vô tận trong tâm khảm.

Đến đoạn thứ 3 khi người chinh phụ gắng gượng vượt qua nỗi cô đơn nỗi nhớ bằng nhiều hành động không giống nhau nhưng dường như nỗi nhớ, nỗi cô đơn lại càng trở nên mạnh mẽ.

Hương gượng đốt hồn đà mê mải
Gương gượng soi lệ lại châu chan
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng”

Đốt hương để tìm sự thanh thản, tìm sự che chở trong thế giới tâm linh tuy vậy bản thân nàng lại càng chìm đắm hơn vào trong nỗi sầu “mê mải”. Soi chỉnh dung nhan, tìm vui thú trong việc điểm trang, tuy vậy lại phải đối diện với sự cô đơn, càng thấm thía hơn cái cảnh ngộ của bản thân mình khi nhận thấy dung nhan ngày càng một tiều tụy, tuổi xuân ngày càng vơi bớt. Khi tìm đến ngón đàn giải khuây thì chinh phụ lại phải đối mặt với nỗi lo lắng khi sợ đàn đứt dây, Đem lại điềm ý xấu.

Đoạn cuối cùng nỗi cô đơn trống trải của người chinh phụ bắt đầu được gởi gắm thông qua các hình ảnh thiên nhiên.

“Lòng này gởi gió đông có tiện

Cành cây sương đượm tiếng trùng mưa phun”

Đoạn thơ tái hiện lại khung cảnh khoảng cách chia xa giữa người chinh phụ và người chinh phụ, thông qua từ “non Yên”, ý chỉ địa điểm người chồng đang tranh đấu và thông qua cả hai câu thơ “Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời/Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu”, diễn tả khoảng cách xa xăm ngàn dặm, khó có khả năng vượt qua. mặc dù vậy với nỗi nhớ thương đong đầy, người chinh phụ đã tìm ra được một phương án rất hay ấy là gửi nỗi nhớ “nghìn vàng” cho cơn gió Đông mang theo ra tiền tuyến. Rồi cuối cùng lại quay trở lại đối mặt với bi kịch cô đơn quạnh quẽ của mình.

Về đặc sắc nghệ thuật ta có khả năng thấy trong đoạn trích này, đặc sắc nghệ thuật chủ yếu là sự thành công trong việc mô tả, bộc lộ tâm trạng nhân vật, biến toàn cầu vô hình biến thành vô hình thông qua việc miêu tả các hành động, dáng điệu, cử chỉ của nhân vật và thiên nhiên bên ngoài. thứ 2 nữa là sự uyển chuyển trong việc sử dụng thể thơ song thất lục bát có tính nhạc điệu, cùng với hệ thống từ láy giàu thành quả biểu cảm có hàm ý rất lớn trong việc thể hiện toàn cầu nội tâm của nhân vật.

Tóm lại Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ nói riêng và Chinh phụ ngâm nói riêng là một tác phẩm hay và nổi bật trong nền văn học trung đại của Việt Nam thế kỷ XVIII, với những thành quả nhân văn, nhân đạo vô cùng cao cả, tốt đẹp dần hướng tới đề cao, khen ngợi ước mơ, khát vọng hạnh phúc của chúng ta cũng giống như người phụ nữ dưới chế độ phong kiến. ngoài những điều ấy ra nó còn là tác phẩm gián tiếp tố cáo tội ác của những cuộc tranh đấu tranh phi nghĩa liên miên và sự bất lực của triều đình trong việc an dân.

Nguôc Văn Học Việt Nam

Similar Posts

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *